Trang web tự động chuyển ngôn ngữ

Sỏi Túi Mật và những điều cần biết

Sỏi túi mật

Túi mật là gì ?

Túi mật và ống túi mật là nơi chứa đựng và dự trữ dịch mật do gan tổng hợp và bài tiết ra. Khi ăn, gan sẽ bài tiết dịch mật nhiều hơn, túi mật có tác dụng co bóp đẩy dịch mật vào ống mật chủ, từ đó đổ vào tá tràng và xuống ruột non, giúp phân hủy các chất béo, thúc đẩy quá trình tiêu hóa thức ăn trong cơ thể người. Ngoài ra, túi mật còn có vai trò như một van điều phối dẫn mật vào tá tràng xuống ruột non một cách nhịp nhàng.

Kích thước túi mật

Túi mật có chiều dài khoảng từ 80 – 100mm và chiều ngang trong khoảng 30 – 40mm.

Vị trí túi mật

Trong cơ thể người, túi mật là một bộ phận thuộc hệ thống đường dẫn mật. Túi mật là một túi nhỏ, nằm sát dưới gan, vùng bụng bên phải, dưới bờ sườn phải.

Các nguyên nhân làm đau túi mật

Sỏi ống mật chủ

Sỏi ống mật chủ (OMC) là bệnh thường gặp ở nước ta. Trước đây, sỏi OMC chiếm tới 80 – 90% trong tổng số sỏi mật; gần đây, do tỷ lệ sỏi túi mật ngày càng gia tăng, làm tỷ lệ sỏi OMC giảm đáng kể (khoảng 50 – 60%).

Khác với sỏi OMC ở các nước Âu, Mỹ (chủ yếu là sỏi Cholesterol và di chuyển từ túi mật xuống); bệnh lý sỏi OMC ở Việt Nam rất phức tạp, thành phần chủ yếu của sỏi OMC là sắc tố mật, nhân là xác hay trứng giun đũa. Yếu tố giun chui đường

Nguyên nhân gây viêm túi mật
Nguyên nhân gây viêm túi mật

mật và nhiễm trùng đóng vai trò quan trọng trong cơ chế hình thành sỏi.

TRIỆU CHỨNG

Triệu chứng lâm sàng

Đau vùng hạ sườn phải

– Đau lăn lộn, chổng mông.

– Đau lan lên vai phải hoặc ra sau lưng.

– Sau khi ăn đau càng tăng hơn (do kích thích đường mật co bóp mạnh).

– Cơn đau kéo dài có khi 2 – 3 giờ

Triệu chứng toàn thân

– Sốt: xảy ra đồng thời hoặc vài giờ sau khi đau; sốt cao 39 – 40oC kèm theo rét run và vã mồ hôi.

– Vẻ mặt nhiễm trùng: môi khô, lưỡi bự bẩn, mệt mỏi; người gầy sút, mạch

nhanh; da, niêm mạc vàng.

Triệu chứng thực thể

– Vàng da và niêm mạc mắt: là triệu chứng chủ yếu, xuất hiện muộn hơn, lúc đầu chỉ vàng nhẹ ở củng mạc mắt rồi dần dần vàng thẫm ở cả da và niêm mạc. Cả 3 triệu chứng: đau, sốt, vàng da (tam chứng Charcot) diễn ra và mất đi theo một trình tự thời gian là đặc điểm nổi bật của sỏi OMC. Nếu đã bị bệnh từ lâu thì trong tiền sử bệnh nhân có thể đã có những đợt đau, sốt, vàng da như vậy hoặc có tiền sử giun chui đường mật hay mổ mật cũ.

– Túi mật căng to: có khi nổi lên ở duới bờ sườn phải như quả trứng gà, sờ thấy tròn, nhẵn, đều, ấn rất đau, di động theo nhịp thở. Tỷ lệ sờ thấy túi mật căng to từ 30 – 35%.

– Gan to dưới bờ sườn 2 – 3 khoát ngón tay, ấn đau.

– Điểm đau: ấn điểm túi mật, điểm cạnh ức phải hoặc cả vùng tá tụy rất đau,

thường có phản ứng thành bụng ở vùng hạ sườn phải.

Các triệu chứng khác

– Nôn: đi kèm theo đau.

– Nước tiểu ít và thẫm màu như nước vối, thường xuất hiện sớm.

– Đôi khi có phân bạc màu do tắc mật hoàn toàn.

– Ngứa ngoài da do nhiễm độc muối mật (ít gặp).

Triệu chứng cận lâm sàng

2.2.1. Xét nghiệm máu

– Bạch cầu tăng, bạch cầu đa nhân tăng.

– Tốc độ máu lắng tăng từ 50 – 100 mm trong giờ đầu.

– Bilirubin tăng cao (bình thường < 17 micromol/l) nhất là  Bilirubin trực tiếp.

– SGOT tăng nhẹ.

– Urê và creatinin máu tăng cao nếu đã ảnh hưởng tới thận.

2.2.2. Xét nghiệm nước tiểu

Nước tiểu có nhiều sắc tố mật và muối mật.

2.2.3. X Quang

– Chụp bụng không chuẩn bị: bóng gan to, đôi khi phát hiện được sỏi túi mật (sỏi Cholesterol).

– Chụp đường mật với chất cản quang (đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch): cho kết quả thấp (40 – 50%), hiện nay ít áp dụng.

– Chụp đường mật qua da:

+ Chỉ định cho những bệnh nhân tắc mật mà đường mật dãn to.

+ Cho thấy hình ảnh đường mật, vị trí và kích thước sỏi; ngoài ra còn có tác dụng dẫn lưu dịch mật ra ngoài; tỷ lệ đạt kết quả cao (86 – 90%). Tuy nhiên, có một số tai biến như: viêm phúc mạc mật, tràn mật vào máu gây sốc mật và chảy máu đường mật; vì vậy phải tiến hành ở cơ sở ngoại khoa và thường chỉ chọc trước khi phẫu thuật. Hiện nay, chọc đường mật bằng kim nhỏ (kim Chiba) dưới hướng dẫn của siêu âm mang lại hiệu quả tốt, ít tai biến.

– Chụp đường mật ngược dòng qua soi tá tràng – Oddi: cho thấy hình ảnh đường mật và đường tụy, xác định được vị trí sỏi, khảo sát vùng bóng Vater, phân biệt ung thư  vùng  bóng  Vater,  có  thể  kết  hợp  cắt cơ vòng lấy sỏi OMC. Tỉ  lệ  thành công khoảng 90 – 95%.

2.2.4. Siêu âm

Siêu âm là phương pháp có  giá trị cho thấy sỏi mật (vị trí, kích thước), giúp xác định kích thước đường mật, túi mật; cho kết quả đúng 95% và được áp dụng rộng rãi trong chẩn đoán các bệnh gan mật. Hình ảnh siêu âm điển hình của sỏi OMC là hình đậm âm có bóng cản nằm trong OMC.

2.2.5. Chụp cắt lớp vi tính

Chụp cắt lớp vi tính cho thấy hình ảnh của gan, đường mật, túi mật và tụy; đặc biệt có giá trị trong việc phát hiện các tổn thường nhỏ ở gan và tụy. Loại CT xoắn ốc giúp chẩn đoán chính xác hơn nhiều.

2.2.6. Chụp cộng hưởng từ hạt nhân

Chụp cộng hưởng từ hạt nhân giúp thấy rõ các đường ống trong cây đường mật, tụy. Phương pháp này có ưu điểm hơn so với chụp mật – tụy ngược dòng qua soi tá tràng là không phải can thiệp và sử dụng thuốc cản quang; tuy nhiên, nó đơn thuần chỉ để chẩn đoán hình ảnh, không giống như chụp mật – tụy ngược dòng qua soi tá

tràng, có thể can thiệp và sinh thiết khi cần.

DIỄN BIẾN VÀ BIẾN CHỨNG

Sỏi OMC có thể diễn biến theo 2 cách:

3.1. Khỏi tạm thời

Sỏi OMC ngoài thời kỳ tắc mật cấp tính có thể ổn định tạm thời (mặc dù sỏi vẫn tồn tại trong OMC). Bằng các  biện pháp điều trị nội khoa (kháng sinh, thuốc chống co thắt, lợi mật) thì một số trường hợp mật sẽ lưu thông: hết đau, hết sốt, và vàng da cũng giảm dần rồi hết hẳn.

Thời gian ổn định dài hay ngắn tùy theo sự di chuyển vị trí, kích thước sỏi và tình trạng nhiễm trùng đường mật.

3.2. Biến chứng

3.2.1. Những biến chứng cấp tính

– Thấm mật phúc mạc: do mật ứ đọng ở trên chỗ tắc của OMC thấm qua thành ống mật, nhất là thấm qua túi mật vào ổ bụng. Khám bụng thấy có phản ứng thành bụng, nhất là ở nửa bụng phải.

– Viêm phúc mạc mật: do vỡ túi mật hoặc thủng OMC, dịch  mật và vi khuẩn vào ổ bụng gây nên nhiễm trùng ổ phúc mạc. Khám thấy co cứng thành bụng và cảm ứng phúc mạc rõ.

– Viêm mủ đường mật và áp xe gan đường mật:

+ Do ứ đọng mật và nhiễm trùng gây nên viêm mủ đường mật: dịch mật đen đục, mùi thối và lẫn mủ.

+ Sau đó hình thành nhiều ổ áp xe nhỏ rải rác ở gan, thường ở gan trái. Bệnh nhân có sốt cao, rét run, gan to và đau…

– Chảy máu đường mật: do sỏi và áp xe gây loét thành ống mật, làm ống mật thông với mạch máu trong gan. Bệnh nhân nôn ra máu hoặc đi ngoài phân đen,  nhất là trong chất nôn có cục máu đông hình thỏi bút chì (dấu hiệu Foldarri). Chảy máu thường kéo dài, dai dẳng và thành từng đợt.

– Viêm tụy cấp do sỏi mật: sỏi ở đoạn cuối OMC hoặc sỏi chít vào cơ Oddi; khám điểm sườn thắt lưng đau, amylaza máu và nước tiểu tăng cao.

– Viêm thận cấp sỏi mật (Hội chứng gan thận): bệnh nhân đái ít, vô niệu, vàng da tăng dần, urê và creatinin máu tăng cao. Tiên lượng nặng, tỷ lệ tử vong cao tới 60%.

– Sốc nhiễm khuẩn đường mật: bệnh nhân có hội chứng tắc mật, sốt cao dao động, mạch nhanh nhỏ > 120 lần/phút, huyết áp tụt, cấy máu có vi khuẩn, chủ yếu là gram (-). Tỷ lệ tử vong cao (50 – 90%).

3.2.2. Những biến chứng mãn tính

– Viêm đường mật.

– Viêm tụy mãn tính.

– Xơ gan mật.

CHẨN ĐOÁN

4.1. Chẩn đoán xác định

Với các trường hợp điển hình thì chẩn đoán xác định dễ dàng với các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng đã nêu ở trên, trong đó chủ yếu dựa vào:

– Đau hạ sườn phải, sốt cao, vàng da (tam chứng Charcot).

– Có tiền sử sỏi mật.

– Túi mật căng to.

– Bạch cầu tăng cao,  bilirubin máu tăng (chủ yếu bilirubin là trực tiếp).

– Siêu âm và chụp mật – tụy ngược dòng qua soi tá tràng – Oddi hoặc chụp đường mật qua da thấy hình ảnh sỏi mật.

4.2. Chẩn đoán phân biệt

– Ung thư  đầu tụy: không đau, không sốt, vàng da tăng dần, vàng rơm, bạch cầu tăng ít hoặc không tăng; X quang: khung tá tràng dãn rộng; siêu âm: kích thước đầu tụy to; chụp CT scanner cho thấy hình ảnh u đầu tụy.

– Ung thư bóng Vater: dựa vào siêu âm,CT scanner hoặc chụp đường mật qua da

– Ung thư đường mật: dựa vào siêu âm, chụp mật qua da và CT scanner.

– Viêm gan virus: bilirubin gián tiếp tăng cao, bạch cầu tăng ít hoặc không tăng, SGPT và SGOT tăng, marker viêm gan (+).

– Loét hành tá tràng thủng vào tụy: cũng có thể gây đau dữ dội như trong sỏi mật, nhưng không sốt, không vàng da, chụp dạ dày có hình ảnh loét.

– Sỏi túi mật: không vàng da, không có dấu hiệu tắc mật. Siêu âm có giá trị chẩn đoán.

ĐIỀU TRỊ SỎI TÚI MẬT

5.1. Nguyên tắc và chỉ định phẫu thuật

– Điều trị nội khoa để chuẩn bị cho điều trị ngoại khoa đạt được kết quả tốt. Phẫu thuật nhằm lấy sỏi, tạo sự lưu thông mật – ruột và dẫn lưu tình trạng nhiễm trùng đường mật.

– Thông thường với sỏi OMC nên phẫu thuật có kế hoạch (có thể mổ mở hoặc mổ nội soi), cần điều trị nội khoa trước: kháng sinh, lợi mật, dãn cơ trơn đường mật, truyền dịch, điện giải.

– Các trường hợp phẫu thuật có chuẩn bị và phẫu thuật trong giai đoạn ổn định thì kết quả tốt hơn, biến chứng và tử vong sau phẫu thuật ít hơn.

– Tuy nhiên, nếu sau điều trị nội khoa từ 24 – 48 giờ mà tình trạng nhiễm trùng và tắc mật không đỡ thì cần can thiệp phẫu thuật sớm.

5.1.1. Chỉ định phẫu thuật cấp cứu

– Viêm phúc mạc mật.

– Thấm mật phúc mạc.

5.1.2. Chỉ định phẫu thuật cấp cứu trì hoãn

– Chảy máu đường mật do sỏi: điều trị nội khoa là chủ yếu (truyền máu, kháng sinh), song nếu chảy máu nhiều lần hoặc tình trạng bệnh nhân không ổn định phải phẫu thuật lấy sỏi, dị vật và rửa đường mật. Nếu do chảy máu từ túi mật thì cắt túi mật, nếu do áp xe gan thì cắt phân thuỳ gan, nếu không rõ nguyên nhân thì thắt động mạch gan riêng.

– Áp xe đường mật do sỏi.

– Viêm tụy cấp do sỏi mật.

5.1.3. Trường hợp có biến chứng nặng

Sốc nhiễm khuẩn đường mật (thường bị viêm đường mật mủ nặng), viêm thận cấp do sỏi mật phải được hồi sức tốt rồi phẫu thuật sớm và chỉ can thiệp tối thiểu.

5.2. Phẫu thuật

Vô cảm : mê nội khí quản

Đường mổ: nên  mổ đường trắng giữa  trên rốn, nếu cần kéo thêm xuống dưới rốn 1-2 cm

Các thì mổ gồm: Thăm dò gan, túi mật, xác định sỏi và vị trí sỏi trong ống mật chủ.

– Mở OMC (đoạn trên tá tràng) lấy sỏi, dị vật.

– Rửa đường mật bằng huyết thanh, chú ý bơm rửa cả đường mật trong gan để lấy sỏi trong gan.

– Kiểm tra sự lưu thông của OMC với tá tràng bằng thông Benique và chụp đường mật trong phẫu thuật.

– Dẫn lưu đường mật: thường dẫn lưu OMC bằng ống Kehr, nhằm dẫn lưu dịch mật nhiễm trùng, rửa Kehr sau phẫu thuật, chụp kiểm tra đường mật qua Kehr sau mổ.

Trong một số trường hợp có thể khâu kín OMC (không đặt dẫn lưu Kehr) nếu có nội soi đường mật kiểm tra trong phẫu thuật xác định hết sỏi và đường mật thông xuống tá tràng tốt.

Ngoài ra:

– Nếu túi mật bị hoại tử hoặc có sỏi túi mật: cắt bỏ túi mật.

– Nếu đường mật chít hẹp thì nối mật với đường tiêu hoá.

nếu có sỏi trong gan kết hợp: tiến hành lấy sỏi trong gan bằng các dụng cụ hoặc tán sỏi với soi đường mật trong mổ hoặc siêu âm trong mổ hoặc siêu âm trong mổ. Một số trường hợp có thể áp dụng: mở nhu mô gan lấy sỏi (chỉ định lấy sỏi lan toả trong 2 gan mà không lấy hết được bằng dụng cụ hoặc có chít hẹp đường mật trong gan) hoặc cắt gan (khi nhiều sỏi trong gan khu trú ở một phân thùy kèm theo chít hẹp

ống gan phân thùy hoặc đã gây biến chứng chảy máu, áp xe đường mật).

5.3. Chăm sóc theo dõi bệnh nhân sau phẫu thuật

– Theo dõi dịch mật qua Kehr: số lượng, màu sắc, tính chất, mùi.

– Theo dõi ống dẫn lưu dưới gan.

– Kẹp thử Kehr  vào ngày thứ 7 – 10 sau phẫu thuật, nếu không đau, sốt thì chụp kiểm tra qua Kehr.

– Điều kiện rút Kehr: thể trạng khá, không sốt, ăn uống ngon miệng, dịch mật trong, đã cặp thử Kehr 2 – 3 ngày ổn định. Phim chụp kiểm tra qua Kehr cho thấy đường mật bình thường, không có sỏi và dị vật, thuốc lưu thông xuống tá tràng tốt.

– Rút Kehr sau phẫu thuật từ 12 – 14 ngày (trung bình).

5.4. Các biến chứng sau phẫu thuật

5.4.1. Chảy máu sau phẫu thuật

– Chảy máu thường do cầm máu không kỹ, hay gặp ở những trường hợp phẫu thuật lại nhiều lần, phải gỡ dính nhiều. Theo dõi ống dẫn lưu dưới gan: nếu máu chảy trên 100 ml mà vẫn còn tiếp tục chảy thì phải phẫu thuật lại ngay để cầm máu.

– Chảy máu đường mật do đặt Kehr quá lâu hoặc ống Kehr to cọ sát đường mật.

Phải rửa ống Kehr bằng huyết thanh ấm, nên rút Kehr sớm để tránh cọ sát.

5.4.2. Rò mật sau phẫu thuật

– Nếu mật chảy vào ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể phải phẫu thuật lại để lau rửa ổ bụng, dẫn lưu.

– Mật theo ống dẫn lưu dưới gan ra ngoài, săn sóc tốt có thể sẽ liền.

5.4.3. Sót sỏi sau phẫu thuật

Sót sỏi là biến chứng hay gặp sau phẫu thuật, khi chụp kiểm tra Kehr hoặc siêu âm đường mật thấy còn sỏi trong OMC. Nguyên nhân thường do phẫu thuật cấp cứu lấy không hết sỏi hoặc sỏi trong gan quá nhiều di chuyển xuống. Với các trường hợp sỏi bùn, sỏi nhỏ điều trị bằng bơm rửa huyết thanh mặn nhiều lần qua Kehr; hoặc dùng phương pháp Pribram (2/3 ête và 1/3 cồn 90o); với trường hợp sỏi lớn phải phẫu thuật lại lấy sỏi. Hiện nay đã áp dụng lấy sỏi còn sót qua đường hầm

Kehr hoặc lấy sỏi xuyên gan qua da.

5.4.4. Các biến chứng khác

Viêm tụy cấp, sốc nhiễm khuẩn, suy gan, suy thận, rò tá tràng và rò đại tràng sau phẫu thuật; rò mật sau phẫu thuật (nhất là khi phẫu thuật lại nhiều lần, bóc tách

dính khó khăn).

5.4.5. Sỏi mật tái phát

Về lâu dài hay gặp sỏi mật tái phát.

5.5. Phương pháp điều trị lấy sỏi bằng nội soi can thiệp

– Lấy sỏi qua đường nội soi tá tràng ngược dòng: tiến hành cắt cơ vòng Oddi để lấy sỏi đường mật chính. Phương pháp này thường được áp dụng cho những bệnh nhân sỏi mật tái phát, có thể sử dụng cho những bệnh nhân chưa mổ mật lần nào và những bệnh nhân già yếu, tỷ lệ thành công từ 70 – 80%.

– Lấy sỏi qua da: có thể nội soi lấy sỏi qua đường hầm đặt Kehr hoặc lấy sỏi xuyên gan qua da với sự hỗ trợ của máy tán sỏi điện thủy lực. Phương pháp này thường được áp dụng cho những bệnh nhân sót sỏi sau phẫu thuật hoặc các bệnh nhân sỏi mật tái phát.

Viêm túi mật triệu chứng

Viêm túi mật là tình trạng nhiễm trùng ở túi mật. Túi mật là một túi nhỏ nằm dưới gan, chứa mật do gan tạo ra và có chức năng tiết mật vào ruột khi thức ăn được đưa vào. Mật giúp hòa tan chất béo trong thức ăn. Nguyên nhân chính gây ra viêm túi mật là do sỏi mật bị kẹt trong ống dẫn từ túi mật đến ruột. Nếu không chữa trị kịp thời, viêm túi mật có thể dẫn đến nhiễm trùng và thủng túi mật.

Triệu chứng đau do viêm túi mật

Viêm túi mật sẽ gây đau đớn ở vùng bụng bên phải (vị trí của túi mật) và gây ảnh hưởng đến chức năng tiêu hóa. Bệnh cũng thể hiện ở một số bộ phận khác của cơ thể. Các triệu chứng phổ biến của viêm túi mật là:

  • Đau và quặn thắt ở vùng hạ sườn phải
  • Đau lan lên ngực, lưng, hay vai phải
  • Đau hơn khi hít vào, di chuyển hoặc khi đè trên vùng bên phải của phần bụng trên
  • Ợ hơi, buồn nôn và thường nôn mửa sau bữa ăn chứa nhiều chất béo
  • Vàng da và vàng mắt
  • Hạ thân nhiệt
  • Phân nhạt màu
  • Ngứa da nếu ống mật chủ bị tắc do sỏi
  • Sốt và ớn lạnh.

Bạn có thể gặp các triệu chứng khác không được đề cập. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về các dấu hiệu bệnh, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ.

Mổ túi mật

Có hai loại cắt túi mật khác nhau, gồm: phẫu thuật cắt túi mật nội soi và cắt túi mật hở. Phẫu thuật cắt túi mật nội soi thường được sử dụng vì ưu điểm của nó là thời gian hồi phục ngắn hơn, nhưng phẫu thuật cắt túi mật hở cần thiết trong một số trường hợp đặc biệt.

Mổ túi mật nội soi

Với phẫu thuật cắt túi mật nội soi hoặc xâm lấn tối thiểu, bác sĩ sẽ thực hiện bốn vết cắt nhỏ trên bụng, một trong số đó là để đưa máy ảnh nhỏ vào và phần còn lại là để đưa các dụng cụ phẫu thuật. Các bác sĩ phẫu thuật xem màn hình video trong khi sử dụng các công cụ để loại bỏ túi mật. Các thủ tục thường mất từ ​​1–2 giờ. Tuy nhiên, phẫu thuật cắt túi mật nội soi có thể không phù hợp khi cần các vết cắt lớn do có các mô sẹo từ các lần phẫu thuật trước hoặc do biến chứng.

Trong phẫu thuật cắt bỏ túi mật mở hoặc truyền thống, bác sĩ thực hiện một vết cắt lớn (15,24cm) ở vùng bụng bên phải, dưới xương sườn để nhìn thấy gan và túi mật. Bác sĩ phẫu thuật sau đó sẽ cắt bỏ túi mật. Phẫu thuật này cũng mất khoảng 1–2 giờ.

4f trong sỏi túi mật

Các nguy cơ chính dẫn đến sỏi túi mật được tóm tắt trong 4 chữ F: female (giới nữ), forty (40 tuổi trở lên), fat (béo) và fertile (có khả năng sinh đẻ). Cách điều trị hiệu quả nhất đối với bệnh này là cắt túi mật bằng phẫu thuật nội soi.

Bác sĩ Nguyễn Thanh Nguyện, Trưởng khoa Ngoại 1 Trung tâm Cấp cứu Trưng Vương TP HCM, cho biết, bệnh sỏi túi mật có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Nguyên nhân là do mức sống người dân ngày càng cao, bữa ăn ngày càng giàu chất dinh dưỡng hơn. Lượng cholesterol dư thừa lắng đọng ở túi mật gây nên sỏi. Tại trung tâm Trưng Vương, trung bình mỗi tuần có 10 bệnh nhân phải cắt túi mật.

Sỏi mật có thể hiện diện trong nhiều năm mà không gây triệu chứng. Tuy nhiên, khi bộc phát (do lúc co bóp, thành túi mật đè vào các hòn sỏi), chúng gây đau dữ dội vùng dưới sườn phải. Mặt khác, sỏi có thể đi vào ống gan và ống dẫn mật chung, làm tắc dòng chảy của mật vào tá tràng, gây cản trở cho sự hấp thu chất béo, dẫn đến vàng da hay viêm đường mật. Bệnh nhân bị sốt, nôn mửa, buồn nôn và biếng ăn. Những triệu chứng trên có thể khiến bác sĩ chẩn đoán nhầm với bệnh ở tá tràng, viêm loét đại tràng.

Các trường hợp viêm túi mật mạn tính thường gây rối loạn tiêu hóa. Nếu không được điều trị kịp thời, túi mật rất dễ bị vỡ, gây nhiễm trùng nặng hoặc tử vong.

Trong nhiều trường hợp, sỏi túi mật không gây triệu chứng nên thỉnh thoảng mọi người nên đi siêu âm để tìm sỏi. Nếu có sỏi và gây đau, cần phẫu thuật sớm.

Bác sĩ Nguyễn Cao Cương, Trưởng khoa Ngoại gan mật Bệnh viện Bình Dân TP HCM, cho biết, soi cắt túi mật hiện được coi là “tiêu chuẩn vàng” trong điều trị sỏi túi mật. Đây là kỹ thuật giản, được thực hiện trong khoảng 30 phút.

Nhiều bệnh nhân thường sợ rằng nếu cắt túi mật, cơ thể sẽ bị khiếm khuyết nên đề nghị bác sĩ chỉ mổ túi mật lấy sỏi hoặc uống thuốc tan sỏi. Tuy nhiên, trên thực tế, túi mật chỉ là nơi dự trữ mật (được sản xuất ở gan) nên việc mất nó sẽ không gây xáo trộn nào đáng kể. Khi đó, mật sẽ đi thẳng từ gan đến các bộ phận tiêu hóa mà không phải thông qua túi mật nữa. Ngược lại, nếu túi mật được giữ lại, nó sẽ rất dễ sinh sỏi, khiến bệnh tái phát. Phương pháp uống thuốc tan sỏi có hiệu quả thấp, thời gian điều trị kéo dài, gây tốn kém.

Một số bệnh nhân cho rằng chỉ nên phẫu thuật khi viên sỏi có kích thước lớn. Đó là một quan niệm sai lầm. Thực ra, sự nguy hiểm của sỏi không phải ở độ lớn mà ở sự di chuyển. Sỏi di chuyển càng nhiều thì mức độ nguy hiểm càng cao vì dễ gây tắc mật hay viêm túi mật.

Đối với những viên sỏi bất động, không gây bất kỳ triệu chứng nào, các bác sĩ không cắt túi mật mà chỉ theo dõi (khả năng gây biến chứng ở loại sỏi này chỉ có 2%). Trong trường hợp sỏi gây biến chứng nặng như xì mủ, viêm nặng…, cần cắt túi mật bằng phương pháp mổ hở.

Mổ túi mật có nguy hiểm không ?

Sau phẫu thuật, cũng có khoảng 10 – 15% người bệnh gặp phải hội chứng sau cắt túi mật, với các triệu chứng tương tự sỏi mật như đau bụng, khó tiêu, tiêu chảy, vàng da, vàng mắt, sốt cao…. Các triệu chứng này có thể thoáng qua và biến mất sau một vài tuần, nhưng cũng có nhiều trường hợp kéo dài dai dẳng trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.
Nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào sau đây trong vài tuần sau phẫu thuật, hãy báo ngay cho bác sĩ:
Sốt hay rét run
Sưng hay tấy đỏ xung quanh vết cắt phẫu thuật
Buồn nôn hoặc nôn
Co rút hoặc đau bụng nghiêm trọng
Chướng bụng
Vàng da, vàng mắt.

Bệnh túi mật

Viêm túi mật là tình trạng nhiễm trùng ở túi mậtTúi mật là một túi nhỏ nằm dưới gan, chứa mật do gan tạo ra và có chức năng tiết mật vào ruột khi thức ăn được đưa vào. Mật giúp hòa tan chất béo trong thức ăn. Nguyên nhân chính gây ra viêm túi mật là do sỏi mật bị kẹt trong ống dẫn từ túi mật đến ruột.

Sỏi cholesterol

Sỏi mật cholesterol
Sỏi mật cholesterol

80% trường hợp mắc sỏi túi mật là dạng sỏi cholesterol. Như tên gọi, sỏi cholesterol túi mật có thành phần chính là cholesterol – chất béo do gan tạo ra và tiết vào dịch mật. Đây là cơ chế quan trọng giúp cơ thể loại bỏ cholesterol thừa trong cơ thể và cũng là nguyên nhân hình thành sỏi cholesterol.

Dịch mật được đưa vào ruột non và thải ra ngoài qua phân trong quá trình tiêu hóa. Để mật có thể vận chuyển cholesterol do gan tạo ra thì cholesterol phải hòa tan trong dịch mật. Tuy nhiên, cholesterol là một dạng chất béo không tan trong nước, chỉ tan vào dịch mật khi có acid mật và lecithin.

Nguyên nhân hình thành sỏi cholesterol túi mật

Gan sản sinh quá nhiều cholesterol trong khi lượng acid mật và lecithin tiết ra không đủ để hòa tan chất béo này. Cholesterol không tan dính lại với nhau và tạo thành các tinh thể cholesterol nhỏ, hay còn gọi là sỏi bùn. Những hạt này tăng kích thước theo thời gian và dần kết tụ với nhau hình thành sỏi viên.

Sỏi mật cholesterol hình thành theo hai cách:

– Nồng độ cholesterol tăng bất thường do gan hoặc thiếu hụt acid mật

– Dịch mật ứ trệ lâu ngày

Một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc sỏi cholesterol túi mật:

– Nữ giới có nguy cơ mắc sỏi mật cao hơn nam giới. Tuổi càng cao, nguy cơ mắc bệnh càng lớn

– Những người béo phì dễ mắc sỏi mật hơn người bình thường

– Phụ nữ mang thai dễ mắc sỏi mật vì trong giai đoạn này, túi mật không co bóp như bình thường, mật tích tụ nhiều cholesterol hơn

– Phụ nữ dùng thuốc tránh thai, liệu pháp hormone thay thế

– Giảm cân quá nhanh

– Bệnh viêm đường tiêu hóa Crohn khiến cơ thể người bệnh không thể tái hấp thu acid mật.

– Tăng triglyceride máu

Điều trị sỏi mật

Từ xa xưa, ông cha ta đã sử dụng rất nhiều bài thuốc chữa sỏi mật từ Đông y, giúp tan sỏi, ngừa viêm túi mật đồng thời ngăn sỏi mật tái phát sau điều trị. Trong đó phải kể đến 8 vị thảo dược quý là “khắc tinh” của bệnh sỏi mật, đem lại tác động toàn diện lên hệ thống gan mật..

Lợi thế của Đông y trong điều trị sỏi mật

Đã bao đời nay, Y học Cổ truyền Việt Nam với các loại thảo dược sở hữu các đặc tính quý báu đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân ta. Từ những bệnh lý đơn giản dễ mắc phải cho đến phức tạp khó điều trị, hầu như luôn có mặt các bài thuốc dân gian giúp hỗ trợ và chữa trị một cách hiệu quả và bệnh sỏi mật cũng không phải là ngoại lệ.

Các phương pháp chính để điều trị sỏi mật bằng Tây y hiện nay, như thuốc hay phẫu thuật, đều có chung nhược điểm là chỉ hiệu quả với một số loại sỏi nhất định và không giải quyết được căn nguyên gây bệnh nên tỷ lệ tái phát sỏi cao, chiếm tới 30 – 50% sau 5 năm điều trị.

Trong khi đó, đây lại là lợi thế của Đông y. Theo quan điểm của Đông y , việc điều trị cần hướng tới sự cân bằng chức năng của toàn hệ thống gan mật và giải quyết triệt để các nguyên nhân gây sỏi bằng cách: tăng cường chức năng gạ(nơi tiết ra dịch mật), tăng vận động đường mật để giúp dịch mật lưu thông tốt hơn và kháng khuẩn, kháng viêm để phòng tránh những biến chứng do sỏi mật gây ra.

8 thảo dược quý tốt nhất cho người bị sỏi mật

Trong tự nhiên, có không ít loại thảo dược được đưa vào thành phần của các bài thuốc trị bệnh sỏi mật. Từ đó, các nhà khoa học đã nghiên cứu và lựa chọn ra 8 vị thảo dược quý được coi là “khắc tinh” của sỏi mật, giúp tăng cường chức năng gan, tăng vận động đường mật, kháng khuẩn, kháng viêm và bào mòn sỏi mật.

Củ Nghệ, Chi tử – Tăng cường vận động đường mật

Trong dân gian, hình ảnh củ nghệ – Đông y gọi là Uất kim, đã nằm trong tiềm thức của mỗi người, từ nông thôn đến thành thị, đâu đâu cũng biết loại thảo dược này với ứng dụng rộng rãi để chữa trị các bệnh về gan mật, chống ung thư. Với thành phần chính là curcumin, Uất kim giúp kích thích gan tiết dịch mật, tăng cường vận động đường mật, giúp tăng cường khả năng lưu thông dịch mật. Nhiều nghiên cứu mới đây còn cho thấy, Curcumin có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, làm giảm cholesterol máu bằng cách ức chế enzym tổng hợp cholesterol tại gan. Không chỉ vậy, hoạt chất curcumin còn bảo vệ gan bằng cách giảm tình trạng lipid peroxy hóa tại gan và tăng cường khả năng thải độc của gan.

Uất kim – Chi tử tăng cường vận động đường mật

Nếu có biểu hiện vàng da, bạn hãy yên tâm vì đã có Chi tử (hạt của quả dành dành). Chi tử hỗ trợ cùng với Uất kim giúp tăng đào thải bilirubin (sắc tố mật gây vàng da) qua đường mật. Các hoạt chất trong Chi tử có tác dụng lợi mật và gia tăng hàm lượng glutathione (chất chống oxy hóa quan trọng trong gan), giảm stress oxy hóa tại gan nhờ hoạt chất genipin, giúp làm giảm men gan. Bên cạnh đó, thành phần crocetin trong chi tử cũng giúp làm giảm cholesterol máu, từ đó giảm tích tụ mỡ tại gan và ngăn sự bão hòa cholesterol trong dịch mật.

Sự phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau giữa Uất kim và Chi tử sẽ giúp làm tăng hiệu quả phòng ngừa và hỗ trợ điều trị bệnh sỏi mật, viêm túi mật, cũng như nhiều bệnh gan khác như viêm gan, tăng men gan, gan nhiễm mỡ.

Nhân trần, Diệp hạ châu – Tăng cường chức năng gan

Tăng cường chức năng gan với Nhân trần – Diệp hạ châu

Nhân trần – Diệp hạ châu là những thảo dược đã được sử dụng từ lâu đời trong y học cổ truyền và nhiều nghiên cứu đã chứng minh vai trò hiệu quả của chúng đối với người bệnh sỏi mật:

– Nhân trần giúp tăng cường chức năng thải trừ của gan, bảo vệ tế bào gan và ngăn ngừa tình trạng gan nhiễm mỡ, đồng thời giúp thúc đẩy quá trình bài xuất dịch mật, do đó giúp giảm đau, chống viêm cho hệ thống đường mật.

– Thảo dược Diệp hạ châu có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu viêm, tán ứ, vì vậy được sử dụng như vị dược liệu chính trong hầu hết các bài thuốc trị bệnh gan. Nhiều nghiên cứu cho thấy, các hoạt chất trong Diệp hạ châu có tác dụng khôi phục và tăng cường chức năng gan, ngăn ngừa gan nhiễm mỡ đồng thời ức chế mạnh quá trình peroxide hóa lipid, giảm stress oxy hóa – nguyên nhân gây hoại tử tế bào gan, giảm viêm và giảm tích tụ mỡ trong gan.

Như vậy, sự phối hợp giữa Nhân trần và Diệp hạ châu là kết tinh độc đáo, hiệp đồng tác dụng lên gan, hỗ trợ điều trị sỏi mật và các bệnh đường mật khác nhờ nuôi dưỡng và bảo vệ cho lá gan khỏe mạnh. Đây là tác dụng không thể tìm thấy trong các thuốc tây y điều trị bệnh sỏi mật.

Sài hồ, Hoàng bá- Kháng viêm, kháng khuẩn

Nhiễm khuẩn đường mật, túi mật do ký sinh trùng, vi khuẩn là một trong những nguyên nhân hình thành nên sỏi mật. Đồng thời, sự xuất hiện của viên sỏi trong hệ thống đường mật cũng làm tăng nguy cơ viêm túi mật, viêm đường mật. Vì vậy, để điều trị tốt sỏi mật cần có vị thuốc giúp kháng viêm, kháng khuẩn, nhằm tác động lên cả nguyên nhân và hậu quả của bệnh  sỏi mật.

Trong y học cổ truyền, Sài hồ có chứa hoạt chất saikosaponin có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, kháng virus, bảo vệ gan. Ngoài ra, Sài hồ còn giúp cải thiện nhu động dạ dày, do đó giúp làm giảm triệu chứng đầy hơi, buồn nôn ở người bị sỏi mật.

Hoàng bá được biết đến từ lâu là một kháng sinh thực vật dùng để chữa các bệnh nhiễm khuẩn đường tiêu hóa. Thành phần flavoniod phenol trong Hoàng bá có tác dụng chống oxy hóa, kháng khuẩn và virus, chống viêm.

Do đó, sự phối hợp giữa Sài hồ với Hoàng bá sẽ giúp tăng cường khả năng chống viêm, kháng khuẩn cho cả gan và hệ thống mật, phát huy tối đa hiệu quả của các bài thuốc trị sỏi mật.

Sài hồ – Hoàng bá giúp kháng viêm, kháng khuẩn

Chỉ xác – Giảm ngay các triệu chứng đầy trướng, khó tiêu

Đầy trướng, khó tiêu, chậm tiêu, buồn nôn… là những biểu hiện thường gặp khi bị sỏi mật. Chỉ xác là quả cam non phơi khô, có vị đắng, chua cay, mùi thơm nhẹ, tính mát, vừa có tác dụng giảm trương lực cơ trơn ở ruột, chống co thắt, vừa có thể làm tăng nhu động ruột và kích thích tiêu hóa. Do đó giảm đáng kể các triệu chứng mà người mắc sỏi mật đang gặp phải.

Giảm ngay các triệu chứng sỏi mật với Chỉ xác

Kim tiền thảo – Bài sỏi mật

Trong y học cổ truyền, Kim tiền thảo là loại dược liệu thường được dùng phổ biến để chữa sỏi mật, sỏi thận, viêm gan vàng da. Kim tiền thảo có tác dụng tăng khả năng bài tiết dịch mật từ tế bào gan, tăng vận động đường mật, kháng viêm do đó giúp bào mòn sỏi từ từ và làm giảm nguy cơ tái tạo sỏi, nhất là đối với những người đã từng trải qua phẫu thuật cắt bỏ túi mật.

Kim tiền thảo có tác dụng bào mòn sỏi.

Đặt các vị thuốc theo bài thuốc trên vui lòng liên hệ 0968 951159

Kênh YouTube Thuốc Hay

 

 

 

 

Xem thêm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

error: Nội dung được bảo vệ !
remove 0974785767 phone email facebook zalo

0974785767