Tên khác : Tên thường gọi: Dướng, Chử đào thụ, chử thực tử
Tên khoa học: Broussonetia papyrifera (L.) L’ Hér. ex Vent.
Họ khoa học: thuộc họ Dâu tằm- Moraceae.
Cây Dướng
(Mô tả, hình ảnh cây Dướng, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ….)
Mô tả:
Cây to, cao 10-16m, cành non có nhiều lông tơ mềm. Lá mọc so le, phiến hình trứng dài 7-20cm, rộng 6-15cm, có mũi nhọn ngắn, gốc tù hay tròn, mép khía răng hay chia thuỳ không đều; mặt sau có lông dính; 3-5 gân gốc nổi rõ; cuống lớn, có lông mềm, lá kèm nhỏ, sớm rụng. Cụm hoa đực ở ngọn cành, dạng bông dài; cụm hoa cái hình đầu, nhiều hoa phủ đầy lông. Quả phức nạc, khi chín rất mềm, màu đỏ.
Hoa tháng 5-8.
Nơi sống và thu hái:
Cây mọc hoang trong rừng ở nhiều nơi của nước ta và cũng được trồng quanh các làng và làm cảnh. Thu hái quả chín vào mùa hè, thu, rửa sạch, phơi khô. Nhựa cây, vỏ rễ và vỏ cây thu quanh năm. Lá thu hái vào mùa hè và thu, dùng tươi hay phơi sấy khô.
Bộ phận dùng:
Quả- Fructus Broussonetiae, thường gọi là Chử thực tử.
Lá, vỏ, cây và nhựa cũng được dùng.
Bào chế
Cách bào chế quả dướng để làm thuốc được thực hiện như sau: Người ta thường lấy quả dướng về vào các tháng 8-11 đem ngâm nước trong 3 ngày, khuấy lên và loại bỏ quả nổi trên mặt nước. Sau 3 ngày vớt ra đem phơi khô, tiếp theo cho vào rượu ngâm khoảng 5-10 phút, rồi lại vớt ra cho vào nồi nấu liên tục 12 giờ liền (thường theo kinh nghiệm để đạt được dược liệu tốt, hiệu quả trong trị liệu, người ta phải khởi đầu nấu vào giờ tý và kết thúc vào giờ hợi). Nấu xong vớt ra phơi khô cất đi sử dụng dần.
Thành phần hoá học:
Quả dướng chứa rất nhiều hoạt chất quý, từ những năm 1960 đã có nhiều nghiên cứu về cây thuốc này, qua nghiên cứu các nhà khoa học tìm thấy trong quả dướng có chứa các chất: 4,75% lignin, canxi cacbonat, axit xerotic, các men lipaza, proteaza và zymaza.
Gần đây các nhà khoa học của viện y học Bắc Kinh còn tìm thấy trong quả dướng có chứa 0,51% chất saponin (Một hoạt chất rất quý thường thấy trong nhân sâm ).
Vị thuốc Dướng
( Tính vị, quy kinh, công dụng, liều dùng ….)
Tính vị
Chử thực tử vị ngọt, khí lạnh, không độc, khí mỏng, vi hậu,
Quy kinh
Kinh túc thái âm tỳ, bồi bổ da thịt, ích khí lực, chữa phù thũng
Công dụng
Lá dướng có vị ngọt, tính hàn, công dụng trị tả, cầm máu, làm thuốc nhuận tràng sử dụng cho trẻ em, nấu xông chữa cảm mạo.
Vỏ, rễ cây dướng có vị ngọt, tính bình, lợi tiểu, tiêu sưng, chữa lỵ, cầm máu.
Nhựa của cây dướng có tính chất sát khuẩn nên thường được sử dụng để đắp lên các vết thương do ong đốt, chó cắn hoặc còn đắp cho cả vết rắn cắn…
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Quả dùng chữa cảm ho, lưng gối mỏi nhừ, nóng ở trong xương cốt, đầu choáng mắt mờ, mắt có màng mộng, phù thũng trướng nước. Liều dùng 9-15g.
Lá dùng chữa viêm ruột, lỵ, thổ huyết, nôn ra máu, tử cung xuất huyết, vết thương chảy máu, Cũng dùng nấu nước xông trị cảm. Liều dùng 9-15g.
Vỏ rễ dùng chữa phù thũng, đau mỏi cơ khớp, dùng 9-15g dạng thuốc sắc.
Nhựa dùng ngoài trị viêm da thần kinh, nấm tóc, eczema, rắn cắn, sâu bọ đốt. Lá giã vắt nước uống có thể khỏi đổ máu mũi, trị bệnh lỵ. Lên đậu thì dùng lá để đắp làm cho đậu mau mọc.
Quả, hạt là loại thuốc cường tráng, lại có công hiệu tiêu sưng phù, mạnh gân xương, sáng mắt, mạnh dạ dày.
Vỏ cây có thể lợi tiểu, trị phù thũng, khí đầy.
Nhựa của rễ có thể bôi các vết rắn cắn, ong đốt, rết và chó cắn.
Cũng dùng chữa hắc lào.
Tác dụng chữa bệnh của chử thực tử
Chữa cảm ho, lưng gối mỏi, nóng xương cốt, choáng đầu, mắt mờ, mộng răng sưng:
Lấy quả dướng 9-15g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần. Cần uống liền 7-10 thang.
Trị hành kinh không đều, kinh ra không dứt ở con gái:
Lấy vỏ cây dướng, sao cháy đen tán bột uống với rượu, hoặc nước sôi nguội có hòa rượu, mỗi lần 8-10g. Ngày uống 2 lần. Người không quen uống rượu ngày uống 2 lần vào buổi sáng và tối, mỗi lần 8-10g.
Chữa mỏi cơ, phù thũng:
Vỏ rễ cây dướng 9-15g, sắc lấy nước uống, ngày 1 thang, chia 2-3 lần, cần uống 5-7 thang.
Chữa viêm ruột, lỵ, thổ huyết, xuất huyết tử cung:
Lấy lá dướng tươi 50-100g, giã vắt lấy nước cốt uống ngày 2 lần.
Máu cam chảy nhiều không dứt:
Lấy một lượng lớn lá dướng giã nhỏ vắt lấy 2-3 lít nước cốt uống hết trong ngày sẽ dứt.
Trị phong độc đau như dùi đâm, mình ngứa:
Lấy lá dướng đun nước tắm, kết hợp giã cành lá vắt lấy nước cốt mà uống.
Trị tứ chi đau, các khớp đau do phong (thấp khớp):
Lấy lá dướng non ăn thường xuyên như là ăn các loại rau khác.
Trị mắt mờ khó nhìn:
Quả dướng 500g, hoa kinh giới 500g. Cả hai vị này nghiền nát vụn rồi trộn với mật làm viên to như đầu ngón trỏ. Mỗi lần nhai uống 1 viên chiêu với nước sắc bạc hà, ngày uống 3 lần.
Chữa người già yếu suy nhược, tiểu nhiều, chân phù:
Quả dướng 12g, phục linh 10g, đỗ trọng 10g, câu kỷ tử 10g, ngưu tất 8g, tiểu hồi hương 3g, bạch truật 10g. Tất cả cho vào 3 bát nước, sắc lửa nhỏ, khi còn lại 1 bát thì gạn ra và uống vào trước khi ăn 30 phút. Ngày cần uống 3 lần.
Trị thủy khí, trùng gây trướng đau:
Quả dướng 1.000g, nước 3 lít, nấu thành cao lỏng, hòa với 120g phục linh và 60g đinh hương. Tất cả tán bột nhuyễn, làm viên to bằng hạt ngô, uống 10-15 viên trước khi ăn và uống kéo dài đến khi thấy nước tiểu trong thì thôi.
Vết đâm chém ra máu:
Lấy quả dướng tán bột đắp vào.
Gan nóng sinh vàng mắt:
Khi bị gan nóng sinh vàng mắt lại đau khó chịu cần lấy quả dướng nghiền nhỏ, mỗi lần uống 4g chiêu với nước đường, vào sau bữa ăn, ngày uống 2 lần.
Trị hầu tắc, hầu phong:
Lấy 1 quả dướng nghiền nhỏ rồi chiêu với nước giếng sạch. Ngày uống 2 lần như vậy (lưu ý phải sử dụng quả dướng được lấy vào ngày 5/5 hoặc 6/6 hay 7/7 âm lịch thì mới hiệu nghiệm. Quả dướng hái về phải được phơi trong râm tức âm can, không sử dụng quả sấy hay phơi khô ngoài nắng).
Trị mình, mặt mọc nhọt cứng như đá hay mụn trứng cá da dày:
Lấy quả dướng giã nát đắp vào.