Tên khác : – Tên dân gian: Cà cuống còn gọi là sâu quế, đà cuống
– Tên khoa học Belostoma indica Vitalis (Lethocerus indicus Lep).
– Họ khoa học: Họ Chân bơi Belostomatidae
Con cà cuống
(Mô tả, hình ảnh con cà cuống, phân bố, thu bắt, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý…)
Mô tả cà cuống
Cà cuống cơ thể hình lá, dẹt giống con gián (nhất là khi non), dài 6-7cm, rộng 2,5cm, màu nâu xám pha vàng nhạt, có nhiều vạch đen bóng. Đầu nhỏ, hình tam giác, hai mắt kép to tròn, đen láy, miệng có vài hút nhọn hoắt, luôn quặp xuống bụng. Lưng, ngực phát triển, có 3 đôi chân khỏe và dẹt, chia đốt và có móng nhọn sắc, 2 chân trước dùng để vỗ và giữ mồi, 2 chân giữa và 2 chân sau giúp cà cuống bơi lội dưới nước; bộ cánh không đều, cứng ở nửa phần gốc và dạng màng rất mỏng ở nửa phần đầu. Ở dưới ngực cà cuống đực, có hai túi nhỏ và dài (gọi là bọng cà cuống) chứa một chất lỏng trong, mùi thơm mạnh, đó là tinh dầu, một vũ khí lợi hại để tấn công con mồi, xua đuổi địch thủ và dụ con cái đến giao phối. Bụng có những khía ngang và ít lông mịn màu vàng nhạt.
Phân bố, thu bắt và chế biến cà cuống:
Cà cuống phân bố ở miền Viễn Đông (Liên bang Nga) và vùng nhiệt đới từ Ấn Độ đến Australia.
Ở Việt Nam, cà cuống có ở các tỉnh từ Bắc vào Nam, nhưng nhiều nhất ở miền Bắc, sống ở ruộng nước, hồ ao, lạch ngòi. Môi trường ô nhiễm do dùng bừa bãi thuốc trừ sâu và phân hóa học hiện nay đã làm cho loài côn trùng này trở nên hiếm và có nguy cơ bị tuyệt diệt.
Bộ phận dùng làm thuốc của cà cuống là thịt, trứng và tinh dầu.
– Thịt và trứng: Người ta bắt cà cuống vào tháng 4 đến tháng 9. Đem về vặt bỏ cánh, thường dùng tươi sống. Thịt và trứng cà cuống chứa protein với hàm lượng khá cao, lipid và các vitamin. Dược liệu có vị ngọt, cay, tính bình, không độc, có tác dụng bổ thận, tráng dương, lợi tiêu hóa.
Từ xa xưa, cà cuống đã được coi là một loại thực phẩm quý thuộc hạng “Sơn hào hải vị” và vật cống của các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong dân gian, người ta dùng thịt và trứng cà cuống để ăn dưới dạng luộc hoặc rán sau khi đã lấy túi tinh dầu. Đây là món ăn – vị thuốc bổ dưỡng rất độc đáo được ưa chuộng ở nhiều địa phương. Có khi người ta để nguyên con, chỉ vặt bỏ cánh, hấp chín, rồi băm nhỏ dùng làm gia vị đặc biệt cho món nước chấm bánh cuốn và nước dùng bún thang.
– Tinh dầu, được lấy từ con cà cuống đực bằng cách sau: Dùng đầu nhọn của que tre hay mũi dao rạch một đường ngang ở vị trí giữa đôi chân thứ ba. Gấp bụng cà cuống xuống để bộc lộ hai túi tinh dầu. Dùng kẹp khẽ gắp túi và rút ra một cách nhẹ nhàng (tránh làm rách túi), rồi chích túi cho tinh dầu chảy vào lọ khô, sạch, đậy kín. Nếu đựng trong lọ có nút mài thì có thể bảo quản được rất lâu.
Thành phần hoá học của cà cuống
Tinh dầu cà cuống là một chất lỏng trong vắt, chứa chất thơm được xác định là một hexanol acetat và được sử dụng như thịt và trứng.
Tác dụng dược lý của cà cuống
– Trên thực nghiệm y học, tinh dầu cà cuống được dùng với liều thấp theo giọt như một chất kích thích thần kinh, gây hưng phấn và tăng cường nhẹ khả năng sinh dục.
– Người ta đã tổng hợp được tinh dầu cà cuống nhân tạo với mùi vị như tinh dầu thiên nhiên, nhưng chất lượng kém hơn
Vị thuốc cà cuống
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị…)
Tính vị:
Cà cuống có vị ngọt, cay, tính bình, không độc.
Tác dụng cà cuống:
Bổ thận, tráng dương, lợi tiêu hóa.
Liều dùng cà cuống
– Trên thực nghiệm dùng với liều nhỏ thì có tác dụng kích thích thần kinh và hưng phấn bộ phận sinh dục, nhưng dùng với liều cao có thể gây ngộ độc.
– Trong nhân dân vẫn dùng dầu cà cuống với liều rất nhỏ khi ăn những thức ăn nhiều mỡ.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc cà cuống (Đang cập nhật)
Tham khảo
Món ăn từ cà cuống
Cà cuống có thể được chế biến làm thức ăn cho người. Theo sử sách thì từ 200 năm trước Công nguyên, cà cuống đã được xếp vào loại sơn hào hải vị của người Việt để cống nạp cho Trung Hoa với tên gọi con sâu quế.
Ở Á châu, cà cuống thường được dùng toàn cơ thể làm thức ăn, từ Ấn Độ, Thái Lan, Myanma qua Trung Hoa, Singapore, Indonesia[4]. Người Trung Quốc ăn cà cuống theo kiểu luộc thêm một chút muối ở Quảng Châu, hoặc xào trong dầu mè ở Bắc Kinh. Ở Singapore, fwai fa shim im là một món cà cuống được ưa chuộng. Người Thái Lan gọi cà cuống là mangda. Họ trộn nhuyễn toàn cơ thể, có khi vứt bỏ mắt, cánh và những bộ phận xơ cứng, với hành, kiệu, ớt, đường, thêm vào nước chanh, nước mắm thành một thứ bột nhão gọi là nam prik mangda để ăn với cơm hay rau.
Tại miền Bắc Việt Nam, cà cuống được loại chân, cánh, đuôi phụ rồi hấp cách thủy trong một cái chõ hay nướng trên lò than để ăn. Cũng có khi người chế biến để nguyên con đem thái nhỏ rồi xào mỡ để ăn ngay hay ướp muối để tích trữ. Cà cuống cái không có bọng tinh dầu thơm nên thường người ta chỉ ăn trứng; hoặc rang, chiên lẫn cà cuống cái với cà cuống đực thành món chiên cà cuống.
Bọng tinh dầu ở gáy cà cuống đực, thoang thoảng mùi hương quế rất khó tả, là gia vị quý giá được pha chế vào nước mắm, không thể thiếu trong các món ăn truyền thống như bún chả, bún thang, chả cá, bánh cuốn, và chính nó làm cho các món ăn nói trên có hương vị nổi tiếng của nghệ thuật ẩm thực Hà Nội truyền thống.
Nếu có ít cà cuống, thường người ta thường hấp hoặc nướng chín cà cuống để tinh dầu lan tỏa toàn thân. Sau đó băm nhỏ hoặc để nguyên con và cho vào lọ nước mắm ngon, khi sử dụng thì lấy ra vài giọt để gia vào một số món ăn; pha vào nước mắm dùng cho bún chả, bánh cuốn; chế vào nước dùng của bún thang; và pha vào mắm tôm khi ăn chả cá. Cũng không hiếm khi nước mắm cà cuống được gia thêm vào giò lụa, nhân bánh chưng.
Tinh dầu cà cuống đã được làm nhân tạo tại Thái Lan, nhưng hương vị thua xa cà cuống thiên nhiên.