Tên khác : Tên thường gọi: Còn gọi là Thù lù đực, Gia cầu, Nút áo, Hiên già nhi miêu, Cà đen, Long quỳ.
Tên khoa học: Solnum nigrum L.
Họ khoa học: Thuộc họ Cà Solanaceae.
Cây Lu lu đực
(Mô tả, hình ảnh cây Lu lu đực, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý…)
Mô tả:
Cỏ mọc hàng năm, nhẵn hay hơi có lông, cao 50-80 cm, có nhiều cành. Lá hình bầu dục, mềm nhẵn, dài 4-15cm, rộng 2-3cm. Hoa nhỏ, màu trắng, mọc thành tán nhỏ có cuống ở kẽ lá. Quả hình cầu, đường kính 5-8mm, lúc đầu màu lục, sau vàng và khi chín có màu đen tím. Hạt dẹt, hình thận, nhẵn, đường kính chừng 1mm. Toàn cây vò hơi có mùi hôi.
Phân bố:
Cây lu lu đực mọc hoang ở khắp nơi, vườn, ruộng, hai bên đường khắp nước ta.
Bộ phận dùng
Người ta dùng toàn cây hay chỉ hái lá dùng làm thuốc
Thu hái:
Thu hái toàn cây, thường dùng tươi hoặc phơi, sấy khô.
Thành phần hóa học:
Theo nghiên cứu, lá lu lu đực có chứa solamargin, solasonin, riboflavin, acid nicotinic, acid citric, acid ascobic; 5,9% protein, 1% chất béo, 2,1% chất khoáng, 8,9% các hợp chất carbohydrat. Trong quả có chứa glucoalcaloid steroid có genin là solasodin (solamargin, solasonin, solanigrin) và các genin khác.
Tác dụng dược lý:
Dược điển Pháp năm 1965 xếp lu lu đực là loại thuốc độc bảng C với tác dụng gây ngủ, làm dịu thần kinh; tuy vậy thử nghiệm độc tính với liều 1000mg dược liệu khô (dịch chiết cồn 50%) trên 1 kg chuột, thuốc dung nạp tốt, không thấy biểu hiện độc.
Ở Châu Âu người ta cho rằng cây Lu lu đực có tính chống co thắt, giảm đau, làm dễ ngủ, an thần; dùng ngoài nó có tính làm dịu.
Gần đây các nhà khoa học Trung Quốc còn phát hiện thấy tác dụng chống ung thư, chống nọc rắn độc và tăng cường miễn dịch.
Vị thuốc từ cây Lu lu đực
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị…)
Tính vị
Vị đắng, hơi ngọt, tính hàn, có ít độc
Công dụng:
Toàn cây có chất độc nhưng nhiều nơi vẫn nấu chín ngọn non ăn như rau. Nước sắc cây dùng rửa vết loét, vết bỏng, mẩn ngứa.
Với liều nhỏ 30-60mml dịch ép dùng chữa bệnh ngoài da nhất là bệnh vẩy nến.
Ứng dụng lâm sàng của cây Lu lu đực
Chữa viêm phế quản cấp, viêm họng:
Lu lu đực 30g, cát cánh 10g, cam thảo 4g. Sắc uống.
Chữa tiểu tiện không thông, phù thũng, gan to:
Lu lu đực 40g, mộc thông 20g, rau mùi 20g. Sắc uống. Có thể dùng toàn cây rửa sạch, giã nát, ép lấy nước uống; hoặc ngọn non 50g – 100g luộc ăn trong ngày.
Chữa sốt:
Bột rễ lu lu đực 100g, bột rễ ké hoa vàng 100g, hạt tiêu đen 2,5g. Làm thuốc bột. Mỗi lần uống 3 – 5g
Chữa bệnh ngoài da (mẩn ngứa, lở loét, bỏng, vảy nến):
Ngọn non hoặc lá, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước bôi. Hoặc dùng toàn cây, nấu lấy nước, cô thành cao mềm (cao Long quỳ) để bôi chữa vảy nến hay trĩ.
Chữa vết thương do va đập bị dập, sưng tấy, ứ máu, đau nhức:
Giã nát 80 – 100g cây tươi, thêm ít giấm, ép lấy nước nước để uống, bã đắp chỗ đau.
Chữa ngã trên cao xuống, bị thương ứ máu:
Dùng cả cây lu lu tươi 80g, giã nhỏ, chế thêm dấm, vắt lấy nước cốt uống, còn bã dùng đắp lên chỗ đau.
Chữa hậu bối, các loại nhọt độc sưng đau:
Dùng lá lu lu và 1 con nhái, cùng giã nát rồi đắp lên chỗ bị bệnh.
Chữa tràng nhạc:
Dùng cành lá lu lu, vỏ cây đào, lượng bằng nhau, nghiền thành bột mịn, hòa với dầu vừng, bôi vào chỗ bị bệnh.
Chữa thổ huyết không ngừng:
Cành lá lu lu phơi hoặc sấy khô nghiền thành bột mịn, nhân sâm tán thành bột mịn. Ngày uống 3 – 4 lần, mỗi lần dùng 4g bột lu lu trộn với 2g bột nhân sâm, chiêu với nước đun sôi để nguội.
Chữa kiết lỵ:
Lấy lá lu lu khô 25 – 30g (lá tươi tăng gấp 2 liều lượng), đường trắng 25g, sắc nước uống.
Chữa viêm khí quản mạn tính ở người cao tuổi:
Dùng toàn cây lu lu tươi 30g, cát cánh 9g, cam thảo 3g. Sắc lấy nước, chia thành 2 lần uống trong ngày (uống liên tục trong 10 ngày). Mỗi liệu trình là 10 ngày giữa các liệu trình nghỉ dùng thuốc 5 – 7 ngày. Tại một bệnh viện ở Trung Quốc đã tiến hành thử nghiệm điều trị 324 ca. Kết quả sau 3 liệu trình: khỏi bệnh 228 ca, có tác dụng rõ ràng 43 ca, có chuyển biến 21 ca, tổng hiệu suất đạt 93,5%.
Chữa bong gân sưng đau:
Dùng lá lu lu tươi một nắm, hành trắng để cả rễ 7 củ, thêm chút men rượu, giã nát, đắp lên chỗ bong gân rồi băng cố định lại, ngày thay thuốc 1 – 2 lần.
Chữa viêm bàng quang:
Dùng rễ cây lu lu tươi và xương đầu lợn, mỗi thứ 60g, sắc với 1.000ml nước, lửa đun nhỏ riu riu cho cạn còn 500ml, chia thành 2 phần uống trong ngày. Tại một bệnh viện ở Trung Quốc đã tiến hành thử nghiệm điều trị 18 ca viêm bàng quang trong đó 12 ca cấp tính và 6 ca mạn tính. Kết quả sau khi uống thuốc 5 – 7 ngày, các trường hợp cấp tính đều khỏi bệnh; trong số mạn tính trừ 1 người bỏ dở giữa chừng, 5 người còn lại đã khỏi bệnh sau 15 – 17 ngày dùng thuốc.
Chữa cao huyết áp:
Dùng cả cây lu lu, sắc lấy nước cốt, cô đặc, chế thành viên 0,2g; ngày uống 2 lần, mỗi lần 10- 20 viên; mỗi liệu trình 10 ngày. Tại một bệnh viện ở Trung Quốc đã thử nghiệm điều trị 58 ca, đạt kết quả tốt.
Chữa nữ bị khí hư bạch đới:
Dùng cây lu lu, hoa mào gà trắng, quán chúng, mỗi thứ đều 30g, sắc với nước 3 lần, bỏ bã, dùng nước thuốc nấu với 200g thịt lợn nạc thành món canh, chia ra 2 lần ăn trong ngày.