Tên khác: Bách hoa tinh, Bách hoa cao, Phong mật.
Tên khoa học: Mel
Mật ong
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ….)
Nguồn gốc:
Là mật của Ong mật gốc Á (Apis cerana Fabricius) hay Ong mật gốc Âu (Apis mellifera L. ), họ Ong mật (Apidae).
Mô tả:
Mật ong được tạo thành từ chất ngọt do ong thu thập được trong các bông hoa. Theo quy định của Hội đồng Ong mật Quốc gia Mỹ và nhiều quy định về thực phẩm quốc tế khác quy định rằng “mật ong là một sản phẩm thuần khiết không cho phép thêm bất kỳ chất gì vào…bao gồm nhưng không giới hạn trong, nước và các chất ngọt khác”. Bài này chỉ đề cập về mật ong do ong mật (chi Apis) tạo ra; mật do các loài ong khác hay các loài côn trùng khác có các đặc tính rất khác biệt.
Thu hái:
Cách lấy mật ong: Ong làm mật quanh năm, nhưng mùa thu hoạch mật tốt nhất là mùa xuân-hạ. Ở miền Nam, mật ong được lấy vào tháng 2-4 là mùa khô. Người sành nghề lấy mật ong ở thiên nhiên, có kinh nghiệm xem bụng ong để biết đã đến lúc thu hoạch mật chưa. Nếu bụng ong có mầu vàng nhạt là tổ mới bắt đầu làm, khắp bụng vàng óng là tổ đầy mật, bụng vàng sẫm là tổ đã hết mật. Khi đi rừng lấy mật ong, họ mang rễ Gừa theo người, rồi đốt lấy khói, hun lùa vào tổ ong. Khói rễ Gừa sẽ làm ong cay khó chịu, sẽ bay ra khỏi tổ. Lúc này, họ sẽ cắt tầng sáp chứa đầy mật một cách dễ dàng, rồi bóp, vắt, ép để lấy mật, lọc. Mật thu được có mầu vàng thẫm, sỉn đục, chất lượng kém hơn vì có lẫn sáp, ấu trùng và một số tạp chất khác. Ở các cơ sở nuôi ong có quy mô công nghiệp, hiện nay người ta dùng máy ly tâm để lấy mật, vừa đỡ tốn công, được nhiều mật, vừa giữ nguyên được tầng sáp (ong không phải xây lại tổ), lại đảm bảo được chất lượng của mật (loại 1).
Thành phần hóa học:
+ Đường Glucose và levulose (60-70%); saccarose (3-10%), mantose, oligosacarid
+ Vitamin B2, PP, B6
+ Men Diastase, catalase, lipase.
+ Các acid hữu cơ: acid Panthotenic, a.formic, tartric, citric, malic, oxalic…
+ Các chất khoáng và các nguyên tố vi lượng: Na, Ca, Fe, K, Mg, Cl, P, S, I, V, Bo, Cr, Cu, Zn, Pb, Li, Sn, Ti…
+ Các hormon, chất thơm, nước (18-20%)…
+ Albumin
Vị thuốc Mật ong
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng …. )
Tính vị:
Vị ngọt, tính bình.
Qui kinh:
Vào kinh tỳ, phế, đại trường.
Liều dùng:
15 – 30g.
Công dụng:
Mật ong bổ dưỡng tỳ vị, giúp tăng khẩu vị, sinh lực, dương huyết, chỉ khát. Nhuận phế, trị các chứng ho mạn tính, ho ra máu. Thanh nhiệt độc, giải độc. Mật ong được dùng để giải độc trong trường ngộ độc Phụ tử, Xuyên ô.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Mật ong
Tăng sức đề kháng cho cơ thể, phòng chống nhiễm trùng.
Hàng ngày nên ăn 5 thìa mật ong, có thể ăn với bánh mì hoặc uống với trà, sữa tươi.
Bồi bổ cơ thể:
Mật ong đánh kem với lòng đỏ trứng gà, ăn mỗi ngày một quả sẽ làm da dẻ hồng hào, cơ thể khoẻ mạnh.
Hồi phục sức lực sau khi ốm dậy:
Mật ong trộn với bột Tam thất ăn mỗi bữa một chén con có thể giúp.
Bị cảm cúm:
Uống một cốc nước chanh nóng có pha thêm 2 thìa mật ong.
Trị ho:
Một quả chanh tươi, khía kiểu múi khế ở ở lớp vỏ ngoài, sau đó cho một vài thìa cà phê mật ong cho ngấm đủ toàn bộ quả chanh trong một cái chén. Để khoảng 1-2 giờ sau đó cắt ra ngậm sẽ đỡ ho ngay.
Dùng ngoài khi da bị trầy xước:
Làm sạch vết thương rồi bôi mật ong lên, vết xước sẽ mau lành và không bị nhiễm trùng hay sưng tấy.
Chữa viêm loét dạ dày:
Mật ong trộn với bột nghệ đen (thể hàn), nghệ vàng (thể nhiệt) có thể Ăn liền trong 1-2 tháng.
Tưa lưỡi trẻ em do nhiễm nấm Candida abicans:
Dùng mật ong nguyên chất nhỏ 1 giọt vào miệng trẻ. Vị ngọt sẽ kích thích các đầu thần kinh vị giác ở lưỡi bé. Em bé sẽ đưa đi đưa lại lưỡi, đó là động tác tự làm sạch nấm Candida abicans ở lưỡi và miệng.
Tham khảo
Cách phân biệt Mật ong thật-Mật ong giả:
+ Lấy một tờ giấy trắng sạch và bôi mật ong lên đó. Mật tốt sẽ thấm rất chậm, còn loại giả thì chỉ vừa phết lên là thấm ướt ngay.
+ Mật ong giả là loại mật đã bị hoà lẫn với nước đường, muối ăn, đạm hoá học, tinh bột, đường mạch nha… Mùi thơm của nó nhạt, có thể có mùi lạ, khi nuốt thấy có cảm giác hơi vướng cổ. Còn mật ong nguyên chất thì khi nhấm có vị ngọt đậm, mùi thơm đậm, ngọt nhưng không ngấy.
+ Mật ong nguyên chất thì khi khuấy thấy rất mềm, thò ngón tay vào không thấy cảm giác sạn, bỏ vào miệng nếm thì thấy tan rất nhanh. Còn mật ong “chế biến” thì khi quấy có cảm giác cứng, khó tan.
+ Mật ong thật đặc quánh, độ kết dính cao, thơm, có các màu trắng, vàng nhạt hay hồng nhạt, trông rất trong.
+ Dùng chiếc đũa tre sạch khêu một ít mật ong rồi kéo thành sợi. Sợi kéo dài sẽ đứt; nếu sau đó mật co lại thành cục tròn thì đó là loại tốt.
+ Dùng một que tre sạch khuấy đều lên, nếu trong mật ong có trộn lẫn các chất khác thì bạn sẽ thấy màu đục hiện lên, còn mật ong chính hiệu thì không có hiện tượng ấy.
+ Dùng một sợi thép hơ nóng đỏ lên chọc vào mật ong, nếu thấy sủi bọt phả hơi lên thì đó là mật ong giả, người ta đã trộn lẫn khá nhiều nước.
+ Lấy một phần mật ong và 5 phần nước quấy đều rồi đậy lại, để một ngày, nếu không thấy có chất lắng xuống thì đó là mật ong tốt.
+ Lấy một phần mật ong, 2 phần nước cơm, 4 phần cồn 95%, đem khuấy đều lên, đậy lại để trong một ngày đêm. Nếu có chất tạp lắng xuống thì đó không phải mật ong tinh khiết, tạp chất lắng càng nhiều chất lượng càng kém.
Ghi chú:
+ Khi mật ong xuất hiện các bọt khí thì không nên để lâu. Trong mật ong có một lượng đường khá lớn nên nó có tính hút nước. Do sơ suất trong bảo quản, lượng nước trong mật ong tăng lên, nếu vượt quá 20% thì làm cho nấm men phát triển nhanh và phân giải các thành phần dinh dưỡng của mật khiến mật bị biến chất. Bọt khí xuất hiện là một dấu hiệu chứng tỏ sự biến chất này. Mật tuy không phải là hỏng hẳn nhưng sẽ không giữ được lâu.
+ Không bảo quản mật ong trong các đồ đựng bằng kim loại, vì trong mật ong có acid hữu cơ và đường, dưới tác dụng của men, một phần các chất này biến thành acid etylenic. Chất này ăn mòn lớp ngoài kim loại và làm tăng thêm hàm lượng kim loại trong mật ong, làm mật biến chất. Thành phần dinh dưỡng của mật ong bị phá hoại, người dùng dễ trúng độc với các biểu hiện lợm giọng, nôn mửa…
Kiêng kỵ: Tỳ vị hư hàn (ỉa chảy) và hay đầy bụng thì không nên dùng.
Keo ong
Các nhà khoa học Nga đã phát hiện tác dụng quý của keo ong là kìm hãm sự tăng nhanh của tế bào ung thư, khối u. Họ sử dụng keo ong dưới dạng dung dịch nước và rượu 40% và 96% để nghiên cứu trên các vi trường nuôi cấy tế bào Phoblastoid (tế bào khối u lâm ba Burkitt) và nhận thấy dung dịch rượu 40% của keo ong có tác động kìm hãm sự tăng sinh của các tế bào ung thư rõ nhất và làm ngừng sự tăng sinh của các tế bào ung thư này ở các nồng độ 50mkg/ ml và cao hơn, gần với các nồng độ có hoạt tính của các thuốc chống ung thư Cyclophosphan và 5 – Eulaoricacyl. Để tiến hành các thí nghiệm trên động vật và trên lâm sàng, năm 1976 và năm 1989, các thầy thuốc Liên Xô (cũ) dùng dung dịch chiết xuất từ keo ong và đã thu được những kết quả dương tính trong việc kìm hãm tăng sinh tế bào khối u. Các tác giả cũng đã khuyến cáo việc dự phòng và điều trị u hạch quanh niệu đạo và ung thư tuyến tiền liệt bằng cách sử dụng có hệ thống và kéo dài rượu keo ong 40% hay bơ chứa 10-15% keo ong với liều một thìa cà phê trước khi đi ngủ đã cho được kết quả tốt. Tác dụng điều trị này được tăng lên khi kết hợp với uống nước sắc các cây thuốc có tác dụng chống ung thư như rễ cây Mẫu đơn, cây Bạch chỉ, rễ cây Đại hồi hương, quả cây Đỗ tùng, rễ hoành cây Bạch chỉ, cỏ Xạ hương bò, hoa cây Cam cúc thường …
Năm 1995, trong bài viết “Sức khoẻ của con người và các sản phẩm của tổ ong”, Tiến sĩ Nga Hakim đã cho rằng các “gốc tự do” là những chất thải của quá trình trao đổi chất và sự tấn công ADN tế bào bởi các gốc tự do có thể là nguồn gốc của các bệnh ung thư, những rối loạn chuyển hoá và sự phát triển sơ cứng động mạnh và sự già cỗi của tổ chức. Keo ong và các sản phẩm của tổ ong (sữa ong chúa, thức ăn khô của ong, phấn hoa, mật ong) là những chất có tính chất quan trọng bảo vệ tế bào bởi tác dụng chống oxy hoá và chống các gốc tự do.
Keo ong cũng có tác dụng chữa bệnh viêm loét dạ dày có hiệu quả. Các giáo sư Nga V.M. Frolov và N.A. Peressadine đã điều trị một bệnh nhân bị loét dạ dày nặng bằng keo ong và thu được kết quả điều trị sau 40 ngày bằng cách cho uống rượu keo ong 20% hay 30% với liều 40-60 giọt hoà vào dung dịch 0,5% Novocain (giảm đau) hay 1/4 ly sữa. Sau 3-4 ngày điều trị, kết quả xét nghiệm tổ chức dạ dày cho thấy các xói mòn và ổ loét dạ dày đã được lớp biểu bì phủ lên. Sau 40-50 ngày, các cơn đau, nôn mửa mất đi, sức khoẻ được hồi phục và giấc ngủ trở lại bình thường.
Trong trường hợp nhiễm xạ do vụ nổ hạt nhân ở Tchernobyl, sự tăng sinh tế bào tuyến giáp của bệnh nhân nhiễm xạ tăng lên gấp 45 lần so với bình thường. Theo các thầy thuốc Nga, việc điều trị bằng rượu keo ong 10% và 30% rất có hiệu quả.
Sữa ong chúa
Các nhà nghiên cứu Liên Xô (cũ) cho rằng sữa ong chúa có tính chất điều biến miễn dịch nên góp phần làm tăng khả năng tự vệ tự nhiên của cơ thể, có ảnh hưởng dương tính đến trạng thái thần kinh và hệ tim mạch, kích thích sự thành sẹo của các xói mòn và ổ loét dạ dày.
Các giáo sư Nga cũng dùng sữa ong chúa để chữa cho các bệnh nhân bị nhiễm xạ nguyên tử ở mức độ nhẹ với liều 100mg mỗi ngày, đặt dưới lưỡi chia làm 2-3 lần trong ngày và kéo dài một thời gian. Các thầy thuốc lưu ý rằng sữa ong khi uống dễ bị phá huỷ bởi axit clohydric và men tiêu hoá, vì vậy lên dùng dạng viên dẹt đặt dưới lưỡi. Nếu uống sữa ong chúa thì trước đó 10-15 phút phải uống nửa ly nước khoáng kiềm hay dung dịch 2% xút hoà tan uống được. Với cách này, người ta có thể chữa khỏi bệnh loét dạ dày cókết hợp với keo ong trong 2-3 tuần.
Tuy sữa ong chúa không có tính kìm hãm các tế bào ung thư tăng sinh, nhưng có khả năng kéo dài tuổi thọ của động vật và người bị ung thư. Theo các nhà nghiên cứu, điều đó chắc chắn là nhờ tác động của axit decenic có trong sữa ong chúa kích thích vào hoc mon của vỏ thượng thận. Như vậy có thể dùng viên sữa ong chúa như một liệu pháp điều trị bổ sung trong tiền ung thư và các bệnh khối u, đặt dưới lưỡi 3 lần trong ngày.
Đặc biệt sữa ong chúa có khả năng phục hồi năng lực sinh dục của nam giới ở bệnh nhân liệt dương. Nhiều bệnh nhân bị nhiễm phóng xạ trong tai nạn Tchernobyl thường bị suy giảm sinh dục. Nhiều trường hợp sau khi được dùng sữa ong chúa, mật ong, keo ong, năng lực sinh dục của họ được phục hồi trở lại bình thường. Nên sử dụng sữa ong chúa buổi sáng lúc chưa ăn gì và buổi tối trước khi đi ngủ.