Tên khác: Lệ cáp (Bản Kinh), Mẫu cáp (Biệt Lục), Lệ phòng (Bản Thảo Đồ Kinh), Hải lệ tử sác, Hải lệ tử bì (Sơn Đông Trung Dược Chí), Tả sác (Trung Dược Chí), Vỏ hàu, Vỏ hà (Dược Liệu Việt Nam).
Tên khoa học: Ostrea sp.
Họ khoa học : Mẫu lệ (Ostreidae).
Mẫu lệ
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ….)
Mô Tả :
Vỏ hầu 2 mảnh, chắc, dầy, hình tròn hoặc hình trứng hoặc tam giác. Vỏ trái úp vào vỏ phải tương đối to mà dầy, vỏ ở trên (phải) hơi lệch so với vỏ ở dưới (trái) nhỏ, mặt ngoài là một tấm vẩy mầu nâu tía hoặc nâu vàng, mọc khum, rất mỏng mà bằng phẳng. Hầu 1-2 tuổi tấm vẩy bằng, mỏng xốp, có lúc có dạng long lanh. Hầu 2 đến vài năm mảnh vẩy bằng phẳng, có lúc ở mé sau nổi và chìm thành dạng sóng nước nhỏ. Loại hầu sống nhiều năm tấm vẩy xếp tầng lên nhau, cứng dầy như đá. Mặt vỏ có mầu tro, xanh, tía, nâu, mặt trong sắc trắng, mé bên mầu tro tía, dây chằng mầu tía đen, ngấn cơ đóng vẩy rất to, mầu vàng nhạt, thường hình trứng hoặc giống trái thận. Hầu là loài ăn tạp, ăn cả động vật, thực vật nhỏ lơ lửng trong nước, chủ yếu là các loại khuê tảo. Mùa sinh đẻ từ tháng 7-10, nhiều nhất là tháng 8-9.
Địa lý:
Hầu cửa sông là loại hầu ở những cửa sông thông ra bể nghĩa là những khúc sông nước lợ. Thích nghi ở nhiệt độ 10-250C và nồng độ muối 10-20% và đáy sông có bùn. Mùa sinh đẻ tháng 7-10, nhiều nhất là tháng 8-9.Các cửa sông của các tỉnh duyên hải miền Bắc Việt Nam đều có, như sông Bạch Đằng (Hải Phòng), sông Chanh (Quảng Ninh), sông Diêm Điền (Thái Bình) Lạch Trường (Thanh Hóa), Tiên Yên (Quảng Ninh)…
Thu hoạch, Sơ chế:
Mùa khai thác hầu vào các tháng 10 đến tháng 3 vì lúc này hầu béo. Tuy nhiên, để lấy vỏ hầu chế làm thuốc, có thể thu nhặt quanh năm vì sau khi lấy thịt, thường người ta vất bỏ vỏ hầu đi.
Bộ phận dùng:
Mai vỏ cứng. Vỏ con to bằng bàn tay, dày, trắng xám không lẫn với các loại vỏ khác, không vụn là tốt.
Bào chế :
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Rửa sạch, phơi khô. Có 3 cách điều chế:
Cho vào nồi đất trét kín, nung cho đến khi chín đỏ là được, miếng nào chưa đỏ thì đem nung lại, tán bột mịn.
Dựng gạch lên ba phía. Trải lớp trấu lẫn than củi rồi lớp mẫu lệ, làm như vậy cho đến hết (để 1 lỗ ở giữa để thông hơi). Trên cùng có phủ lớp than và trấu. Đốt từ dưới lên, khi được thì vỏ hàu bóp mềm, vụn, gắp ra, tán bột mịn.
Nếu số lượng ít, nung trực tiếp trên than hồng, thấy đỏ là được, tán bột mịn.
Bột có thể tẩm ít giấm tuỳ theo đơn để trị bệnh về Can huyết (1.000g bột dùng 100ml giấm) (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
Dùng sống hoặc nung lên dùng, dùng sống nên giã vụn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Bảo quản:
Bột màu xanh nhạt là tốt. Để nơi khô ráo.
Thành phần hóa học :
Mẫu lệ chứa 80-95% Calci carbonat, Calci phosphat và calci sulfat. Ngoài ra còn có Magne, nhôm và sắt oxid, chất hữu cơ. Nhưng khi nung lên thì không còn chất hữu cơ nữa (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Tác dụng dược lý :
Bột Mẫu lệ 150-200g, bột Bạch cập 10-20g có thể dùng làm thuốc cản quang (Thực Dụng Trung Y Học).
Vị thuốc Mẫu lệ
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng …. )
Tính vị :
Vị mặn, sáp, tính hàn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Vị mặn, tính sáp, hơi hàn (Thực Dụng Trung Y Học).
Quy kinh :
Vào kinh túc Thiếu âm Thận (Thang Dịch Bản Thảo).
Vào kinh Thận, Can, Đởm (Bản Thảo Kinh Sơ).
Vào kinh Can, Đởm, Thận (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Vào kinh Can, Đởm, Thận (Thực Dụng Trung Y Học).
Công dụng :
Chủ thương hàn nóng lạnh, sốt rét nóng nhiều, kinh sợ, giận dữ, traán kinh, mạch lươn, xích bạch đới, uống lâu ngày mạnh khớp xương (Bản Kinh).
Trừ nhiệt lưu ở khớp đốt, vinh vệ, lúc nóng lúc lạnh, phiền đầy, chỉ hãn, tim đau do khí kết, chỉ khát, sáp trường, tiết tinh, họng nghẹn, ho, tâm bĩ (Biệt Lục).
Hoá đờm, nhuyễn kiên, thanh nhiệt, trừ thấp, chỉ thống, trị kiết lỵ, tiểu đỏ đục, tiêu sán khí, trưng hà, tích khối, kết hạch (Bản Thảo Cương Mục).
Ích âm, tiềm dương, hóa đờm, tán kết. Dùng sống trị lao, nóng trong xương, mồ hôira nhiều, tràng nhạc sưng cứng. Nung lên dùng trị di tinh, ra khí hư, băng huyết, còn giữ vững được hạ tiêu, tiêu chảy (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Dùng sống: Tư âm, tiềm dương, hoá đờm, nhuyễn kiên. Nung đỏ: Cố sáp hạ tiêu, ức chế chất chua. Trị âm hư dương cang (nhức đầu, hồi hộp, mất ngủ, hay mơ, phiền táo, tai ù, chân tay tê), loa lịch (lao hạch), cốt chưng, lao nhiệt, mồ hôi trộm, di tinh, đới hạ, tiêu chảy lâu ngày, dạ dày đau, dạ dày dư chất chua, nôn mửa (Thực Dụng Trung Y Học).
Làm thuốc chống acid, có tác dụng hoà Vị, trấn thống, trị dạ dày dư acid, cơ thể hư yếu, mồ hôi trộm, hồi hộp lo sợ, da thịt máy giật. Phụ nữ có thai và trẻ nhỏ thiếu calci, ngưuơì bị lao phổi… trị có công hiệu (Hiện Đại Thực Dụng Trung Y Dược)
Kiêng kỵ :
Phàm bệnh hư mà nóng nhiều nên dùng, hư mà có lạnh không dùng. Thận hư không có hoả, tinh lạnh tự ra, không dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).
Bối mẫu làm sứ, được ngưu tất, Cam thảo, Viễn chí, Xà sàng tử là tốt. Ghét Ma hoàng, Ngô thù du, Tân di (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
Nếu âm hư mà không có hỏa và tiêu chảy thuộc hàn khí thì đều cấm dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Người hư yếu, có chứng hàn, Thận hư không có hoả, tinh lạnh tự ra: không nên dùng (Thực Dụng Trung Y Học).
Liều dùng:
12 – 40g.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Mẫu lệ
Trị bệnh bách hợp, khát lâu ngày không khỏi:
Qua lâu căn, Mẫu lệ (sao). Lượng bằng nhau, tán bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 4g (Qua Lâu Mẫu Lệ Tán – Kim Quỹ Yếu Lược).
Trị băng huyết ra không ngừng, khí hư kiệt:
Mẫu lệ, Miết giáp đều 90g. Tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 4g (Thiên Kim Phương).
Trị nằm thì ra mồ hôi trộm, phong hư đầu đau:
Mẫu lệ, Bạch truật, Phòng phong đều 90g. tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 4g (Mẫu Lệ Tán – Thiên Kim Phương).
Trị cơ thể vốn suy yếu, tân dịch không bền chặt, tự ra mồ hôi, ban đêm nặng hơn, lâu ngày không khỏi, gầy ốm, hoảng hốt, kinh sợ, hơi thở ngắn, phiền muộn, mỏi mệt:
Ma hoàng (rễ) 30g, Hoàng kỳ 30g, Mẫu lệ (tẩm nước gạo, nung đỏ) 30g. tán bột. Mỗi lần dùng 9g, Tiểu mạch 100 hạt, sắc với 450ml nước, còn 300ml, bỏ bã, chia làm 2 lần uống (Hoà Tễ Cục Phương).
Trị tiểu nhiều:
Mẫu lệ (sao cho bốc khói), Đồng tiện 3 thăng. Sắc còn 2 thăng, chia làm 3 lần uống (Càn Khôn Sinh Ý).
Trị tiểu buốt, khó tiểu, đã uống thuốc về huyết mà không bớt:
Mẫu lệ, Hoàng bá. Lượng bằng nhau. Tán bột. Mỗi lần uống 3g với nước sắc Tiểu hồi hương (Y Học Tập Thành).
Trị hoạt thoát:
Mẫu lệ nung, Xích thạch chi nung. Tán bột, trộn đều, cho rượu vào nấu với bột gạo thành hồ, trộn với thuốc làm viên, uống với nước muối vào lúc đói (Mẫu Lệ Hoàn – Chứng Trị Chuẩn Thằng).
Trị di tinh, mộng tinh, đại tiện phân sền sệt.
Mẫu lệ tán bột, trộn với dấm, làm hoàn to như hạt bắp. Mỗi lần uống 30 viên, ngày 2 lần (Đan Khê Tâm Pháp).
Trị sau khi bệnh nặng mới khỏi, hơi làm việc mệt thì chảy máu mũi:
Mẫu lệ 10 phần, Thạch cao 5 phần. Tán bột. Ngày uống 3-4 lần, mỗi lần 4g với rượu. Hoặc trộn với mật làm viên to như hạt bắp, uống (Bổ Khuyết Trửu Hậu Phương).
Trị chóng mặt, xoay xẩm:
Mẫu lệ, Long cốt đều18g, Cúc hoa 9g, Câu kỷ, Hà thủ ô đều 12g. sắc uống (Sơn Đông Trung Thảo Dược).
Trị lao phổi ra mồ hôi trộm:
Mẫu lệ 15g, sắc với 500ml còn 200ml, chia làm 2 lần uống (có thể thêm đường cho dễ uống), uống liên tục vài ngày. Sau khi mồ hôi đã ngừng ra, lại uống 2-3 ngày để củng cố kết quả. Đã trị 10 ca, nói chung, sau khi uống 2-3 thang mồ hôi trộm tiêu hết. Có 3 ca thời gian đầu không có kết quả rõ, trong đó 2 ca thêm Long cốt, Toan táo nhân. Sau khi uống vài thang cũng có kết quả tương đối tốt. Trong thời gian điều trị, không thấy có phản ứng phụ (Hiện Đại Thực Dụng Trung Y Dược).
Tham khảo :
Các tài liệu khác
Mẫu lệ vào kinh túc Thiếu âm Thận, vị mặn làm thuốc mềm chất cứng, sùng Sài hồ dẫn thuốc cho nên có thể trừ khôí u ở hạ sườn. Lấy Trà dẫn có thể tiêu được hạch. Dùng Đại hoàng dẫn có thể trị khoảng đùi sưng. Địa hoàng làm sứ cho nó, có thể ích tinh, thu sáp, súc niệu. Nó vốn là thuốc của kinh Thận vậy (Thang Dịch Bản Thảo).
Mẫu lệ vị mặn, tính hàn, nặng, sáp. Vị mặn làm mềm được chỗ cứng, khí hàn trừ được nhiệt, chất nặng tiềm dương, tính sáp thì tbu liễm được, lại phần nhiều cùng dùng với Long cốt. Trong cái bổ ích chân âm của Long cốt, có thể làm thức dậy được khí thanh dương bị chìm đắm. Trong cái bổ ích chân âm của Mẫu lệ, có thể thu liễm được khí phù dương bốc lên dữ dội, cho nên, phần nhiều trị các chứng lao nóng trong xương, tiêu chảy hoạt thoát. Còn dùng sống thì thiên về làm mềm chỗ cứng, nung lên dùng thì thiên về cố sáp (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Vị thuốc này cùng Long cốt, rễ Ma hoàng, các vị bằng nhau, tán thành bột xoa vỗ vào người để cầm mồ hôi ra do hư nhược (hư hãn) (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Mẫu lệ vị mặn, tính hàn, vào Thận, có thể tư âm, tiềm dương, thoái hư nhiệt, nhuyễn kiên đàm. Sau khi nung thì sáp mà kiêm táo, có thể cố sáp hạ tiêu, trừ thấp trọc, liễm hư hàn. Mẫu lệ công dụng giống như Long xỉ, đều có tác dụng cố sáp, cho nên hai vị thường dùng chung với nhau, dùng trong các chứng hư nhược, hoạt thoát. Huyết hư thì phối với thuốc bổ huyết, khí suy thì dùng chung với thuốc bổ khí. Long cốt vị ngọt, tính bình, có thể trấn Tâm, an thần, dùng trị tâm thần bốc lên trên, phiền táo, kinh sợ, cuồng. Mẫu lệ vị mặn, tính hàn, lại có thể hoá đàm, nhuyễn kiên, lại trị được lao lịch, dưới sườn có khối u cứng. Mẫu lệ vào túc Thiếu âm, dùng làm thuốc nhuyễn kiên, lấy Sài hồ làm thuốc dẫn, có thể trị dưới hông sườn có khôi u cứng. Lấy Chi tử làm thuốc dẫn thì có thể trừ kết ở đỉnh đầu. Dùng Đại hoàng làm thuốc dẫn thì có thể trừ thủng ở đùi. Lấy Địa hoàng làm sứ, có thể ích tinh, thu sáp, chỉ niệu… (Thực Dụng Trung Y Học).