Tên khác : Muống biển còn có tên là rau muống biển, mã an đằng, nhị diệp hồng thự,… Tên khoa học là Ipomoea pescarpae (L.) thuộc họ khoai lang – Convolvulaceae.
Cây Muống biển
( Mô tả, hình ảnh cây Muống biển, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ….)
Mô tả:
Cây thảo mọc bò dài, không cuống, có thân dày, phân nhánh, hầu như có rãnh, nhẵn, thường đo đỏ, ngọn hướng lên. Lá hầu như đang thuôn, hình tim sâu ở gốc, tròn hay lõm ở đầu, dài 4-6cm, rộng 5-7cm, nhẵn cả 2 mặt; cuống lá dài 5-7cm, dày về phía gốc, rải rác có nhiều u, mang hai tuyến đối nhau ở đầu. Hoa to, màu hồng, thành xim ít hoa ở nách lá, với một cuống chung dài 2-4cm. Quả nang hình cầu, đường kính 2cm. Hạt 4. đường kính 7mm, đẹp, màu hung.
Là cây sống nhiều năm, nhìn thoáng qua tựa như cây rau muống. Cây mọc bò lan trên mặt đất, lan đến đâu rễ mọc đến đấy, thân như thân rau muống nhưng không rỗng mà đặc và phân rất nhiều nhánh. Lá mọc so le, hình móng ngựa, lá non có 2 mảnh cụp vào nhau. Lá và dây đều có nhựa; khi ngắt có nhựa đục trắng chảy ra giống như nhựa khoai lang. Những nơi có muống biển mọc dân gian thường dùng lá làm thức ăn cho trâu bò, dê, ngựa. Tại các khu nghỉ mát, nếu chú ý sẽ thấy những đám cây muống biển mọc hoang khắp trên các bãi cát dọc theo bờ biển. Loài cây này có tác dụng giữ cho cát khỏi bị trôi đi và giữ cho bờ biển đỡ bị sạt lở. Muống biển còn là một vị thuốc chữa được nhiều bệnh. Hoa vào mùa hè và thu.
Bộ phận dùng:
Toàn cây – Herba Ipomoeae Pes-caprae.
Nơi sống và thu hái:
Loài phân bố ở Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, cây mọc hoang ở bãi cát ven biển và cố định cát. Thu hái toàn cây quanh năm, dùng tươi hay phơi khô dùng dần.
Thành phần hóa học:
Cây chứa nhựa 7,27%, tinh dầu 0,048% và các chất pentatriacontane, triacontane, sterol, acid behenic, acid melissic, acid butyric và acid myristic. Rễ chứa alcaloid.
Vị thuốc Muống biển
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng …. )
Tính vị:
Vị cay và hơi đắng, tính ấm.
Công dụng:
Trừ thấp, tiêu viêm, lợi tiêu hoá và nhuận tràng. Dịch lá lợi tiểu
Quy kinh
2 kinh can và tỳ
Liều dùng:
Uống trong dùng 30-60g tươi (hoặc 10-20g khô), sắc lấy nước uống.
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Muống biển
Chữa phong thấp, khớp xương đau nhức:
Dùng muống biển 45g, sắc với nước và rượu (nửa nước nửa rượu), chia 2-4 lần uống trong ngày. Hoặc dùng muống biển 30g, cỏ xước 15g, sắc nước uống.
Trĩ xuất huyết:
Dùng muống biển tươi 30g, hầm với 300 – 500g lòng lợn, chia 2 lần ăn trong ngày; liên tục 10 ngày (một liệu trình), nếu chưa khỏi nghỉ 3-5 ngày lại tiếp tục một liệu trình khác.
Chữa ung nhọt, viêm mủ da:
Dùng muống biển 30-60g, sắc và thêm đường đỏ uống. Bên ngoài dùng cây tươi giã nát đắp vào chỗ bị bệnh.
Chàm (eczema):
Dùng rễ muống biển 30g, sắc nước uống. Mặt khác, dùng lá muống biển tươi, sắc lấy nước rửa.
Bối ung (nhọt độc mọc ở lưng):
Dùng lá muống biển tươi, lượng thích hợp, giã nát đắp.
Ngoài ra.
Ở Ấn Độ, lá được dùng đắp ngoài trị tê thấp và đau bụng, dịch lá dùng trị bệnh phù và đồng thời dùng lá giã nát đắp vào những phần bị phù.
Ở Thái Lan, lá được dùng ngoài để trị chất độc của thịt sứa.
Ở Trung Quốc, người ta dùng toàn cây trị:
1. Phong thấp đau nhức khớp xương, đau ngang thắt lưng;
2. Mụn nhọt và viêm mủ da, Trĩ xuất huyết. Liều dùng 15-30g, dạng thuốc sắc. Không dùng cho phụ nữ có thai. Dùng ngoài, lấy cây tươi giã đắp.