Tên khác : Tiêu lốt, Tất bạt
Tên khoa học: Piper longum L., thuộc họ Hồ tiêu – Piperaceae.
Tiếng Trung: 荜拔
Cây Tiêu lốt
( Mô tả, hình ảnh, thu hái, chế biến, thành phần hoá học, tác dụng dược lý ….)
Mô tả:
Cây tiêu lốp thuộc loại thân thảo, phần gốc mọc bò. Thân cành mang hoa, không lông, đứng thẳng, có thể cao 2-4 m. Lá mọc so le, có cuống ngắn. Phiến lá hình trứng, thuôn, dài khoảng 6-7.5 cm, rộng 3-5 cm. Gốc hình quả tim, hơi lệch một bên. Đầu lá nhọn, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông nhỏ. Lá có 5-7 gân.
Cụm hoa mọc thành bông. Hoa đơn tính. Hoa đực dài khoảng 3.5 cm, có trục nhẵn, lá bắc tròn, có 2 nhị. Hoa cái ngắn hơn, khoảng 1.5 cm, có cuống ngắn.
Cụm quả hình trụ, hơi cong, do nhiều quả mọng nhỏ tập họp tạo thành, dài 1.5-3.5 cm, đường kính 0.3-0.5 cm, mặt ngoài màu đen hay nâu. Gốc cụm quả có cuống còn sót lại hay vết của cuống đã rụng. Quả mọng nhỏ, hình cầu. Hạt tròn hay gần như tròn cỡ 2-2,5 mm.
Ra hoa tháng 3.
1. Rễ: Có 4 loại rễ chính.
1.1 Rễ cọc: Rễ cọc chỉ có khi trồng bằng hạt. Sau khi gieo, phôi hạt phát hành, rễ đâm sâu vào đất, có thể sâu 2-2,5 m, nhiệm vụ chính là giữ cây và hút nước chống hạn cho cây.
1.2 Rễ cái:Rễ cái phát triển từ hom tiêu (nếu trồng bằng hom). Mỗi hom có từ 3-6 rễ, nhiệm vụ chính là hút nước chống hạn cho cây trong mùa khô, sau trồng 1 năm, rễ cái có thể ăn sâu đến 2 m.
1.3 Rễ phụ: Rễ phụ mọc ra từ rễ cái thành từng chùm mang nhiều lông hút, tập trung nhiều ở độ sâu 15-40 cm. Nhiệm vụ chính là hút nước và dưỡng chất để nuôi cây. Đây là loại rễ cần thiết nhất của cây tiêu trong quá trình sinh trưởng và phát hành.
1.4 Rễ bám (rễ khí sinh, rễ thằn lằn):Rễ này mọc từ đốt thân chính hoặc cành của cây tiêu, bám vào nọc (nọc sống, nọc chết, nọc xây…) nhiệm vụ chính là giữ cây bám chắc vào nọc, hấp thụ (thẩm thấu) chỉ là thứ yếu.
Trong hệ rễ, phần ở dưới đất quan trọng hơn phần ở trên không khí. Hệ thống rễ ở tầng đất từ 0-30 cm rất quan trọng, nên tạo điều kiện tầng đất này dễ dàng cho rễ tiêu phát hành.
2. Thân: Tiêu thuộc loại thân bò, là loại thân tăng trưởng nhanh nhất có thể 5-7 cm/ngày.
Cấu tạo thân tiêu gồm nhiều bó mạch libe mộc có kích thước khá mập, nên có kỹ năng vận chuyển nước, muối khoáng từ dưới đất lên thân rất mạnh. vì vậy, khi thiếu nước hoặc bị vấn đề gì khác thì cây tiêu héo rất nhanh.
Thân tiêu có màu đỏ nhạt (non) đến nâu xám, nâu xanh, xanh lá cây đậm (lúc cây sung, lá mập). Khi cây già hóa mộc thì màu nâu sẫm. Nếu không bấm ngọn thì có thể mọc dài tới 10 m.
3. Cành: Có 3 loại cành:
3.1 Cành vượt (cành tược): Mọc ra từ các mầm nách lá ở những cây tiêu nhỏ tuổi hơn 1 tuổi, mọc thẳng hợp với thân chính một góc nhỏ hơn 450. Cành này sản xuất rất mạnh, nếu sử dụng làm hom để giâm cành thì cây tiêu ra hoa lừ đừ hơn cành mang trái nhưng tuổi thọ kéo dài hơn (25-30 năm).
3.2 Cành ác hiểm (cành mang trái): Là những cành mang trái mọc ra từ các mầm của nách lá ở gần ngọn của thân chính trên những cây tiêu bự hơn 1 tuổi, góc độ phân cành phệ hơn 450.
Cành này ngắn hơn cành tược, lóng ngắn, khúc khuỷu và thường mọc cành cấp 2, nếu lấy cành này nhân giống thì mau cho trái (nhưng tuổi thọ thấp).
3.3 Dây lươn: Mọc ở gần mặt đất từ những mầm nách lá. Trong phát hành người ta thường cắt bỏ hoặc dùng làm hom giâm cành.
4. Lá: Lá cây tiêu thuộc lá đơn, hình trái tim, mọc cách. Cuống lá dài 2-3cm, phiến lá dài 10-25cm, rộng 5-10cm tùy giống.
Lá là một bộ phận sử dụng để nhận biết giống, trên phiến lá có 5 gân hình lông chim.
5. Hoa: Hoa mọc thành từng gié (chùm) treo lủng lẳng trên cành. Một gié dài khoảng 7-12cm, trung bình có từ 30-60 hoa trên gié bố trí theo hình xoắn ốc, mỗi hoa có một lá bắc nhỏ dại mà rụng rất sớm khó thấy. Hoa tiêu có thể lưỡng tính hoặc đơn tính và co thể đồng chu, dị chu hoặc tạp hoa.
Hoa tiêu không có bao, không có đài, có 3 cánh hoa, 2-4 hai đực, bao phấn có 2 ngăn, hạt phấn tròn và rất bé dại, đời sống rất ngắn khoảng 2-3 ngày. Bộ nhụy cái gồm: Bầu noãn có 1 ngăn và chứa 1 túi noãn (tiêu chỉ có 1 hạt).
Từ khi sinh ra gié tới khi hoa nở trọn vẹn khoảng 29-30 ngày. Sự thụ phấn của hoa không phụ thuộc vào gió, mưa hoăc côn trùng mà phấn của hoa trên thụ cho hoa dưới của một gié.
Sự thụ phấn của hoa dựa vào rất bự do độ ẩm không khí, độ ẩm đất. Đây là điều cần xem xét cho việc tưới nước cho vùng trồng tiêu ở miền Đông Nam Bộ.
(Chú ý: Ngoài việc tưới gốc còn phun lên lá để tăng độ ẩm không khí).
6. Trái: Trái tiêu chỉ mang 1 hạt có dạng hình cầu, đường kính 4-8mm (thay đổi tùy giống, điều kiện chú tâm, sinh thái).
Từ khi hoa nở tới trái chín kéo dài 7-10 tháng, chia ra các giai đoạn:
– Hoa sinh ra và thụ phấn: 1-1,5 tháng.
– Thụ phấn đến phát hành tối đa: 3-4,5 tháng, đây là giai đoạn cần nhiều nước nhất.
– Trái phát hành tối đa đến chín: 2-3 tháng.
Bộ phận dùng:
Quả – Fructus Piperis Longi, thường gọi là Tất bạt
Nơi sống và thu hái:
Loài của Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam. Cây mọc hoang và cũng được trồng ở vườn và hàng rào khắp nước ta. Thu hái bông quả chín vào tháng 9-10, lúc những quả phía dưới trở thành màu đen, đem phơi khô.
Thành phần hóa học:
Quả chứa Piperine, acid palmitic, acid tetrahydropiperic, l-undecylenyl – 3, 4-methylenedioxy-benzene, piperidine. N-Isobutyledeca-trans-2-trans-4-di-enamide, sesamin. Rễ chứa piperine, piplartine và piperlonguninine.
Tác dụng dược lý
Tiêu lốt được dùng làm gia vị và làm thuốc trong dân gian, nên được cho là an toàn khi sử dụng với những số lượng vừa đủ. Tuy nhiên, do quả được ghi nhận là có hoạt tính ngừa thai khi thử trên thú vật nên tránh dùng cho phụ nữ đang mang thai và nuôi con bằng sữa mẹ.
Piperine có những hoạt tính tương tác sinh học như can thiệp vào các hoạt động xúc tác sinh hóa của một số men (enzyme) trong cơ thể, ức chế men Arylhydrocarbon hydrolase (AHH) và UDP- glucoryltransferase nơi gan, nên có khả năng gây thay đổi sự hấp thu phenytoine và barbiturates trong cơ thể.
Tiêu lốp có thể gây tăng hiệu ứng thuốc và tăng phản ứng phụ khi dùng chung với phenytoin (Dilantin), propranolol (Inderal), theophylline.
Vị thuốc Tiêu lốt
( Công dụng, Tính vị, quy kinh, liều dùng …. )
Tính vị – Công dụng:
Bông quả có vị cay, tính nóng, có tác dụng ôn trung, tán hàn, hạ khí, chỉ thống, kiện vị.
Rễ có vị cay, tính ấm, không độc; có tác dụng gần như bông quả, lại trừ được huyết khí.
Qui kinh:
Đang cập nhật
Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc Tiêu lốt
Bệnh tiểu đường:
Bệnh tiểu đường là nguyên nhân hàng đầu của mối quan tâm đối với các cá nhân trên toàn thế giới. Rất may, hạt tiêu lốt đã được tìm thấy để làm giảm mức độ glucose trong máu ở những bệnh nhân tiểu đường và ngăn ngừa biến chứng khác liên quan đến rối loạn.
Bệnh gan:
Do sự phụ thuộc của chúng ta về thực phẩm chế biến, cơ quan nội tạng của chúng tôi, bao gồm gan, có xu hướng trở nên yếu ớt, và ngày càng nhiều người dân đang bị bệnh gan . Tiêu lốt được biết đến là có chức năng gan-bảo vệ, có thể giúp cơ thể quản lý ngộ độc gan, và cũng có thể ngăn ngừa bệnh vàng da.
Nhiễm khuẩn :
Ở một đất nước đang phát triển như Ấn Độ, nơi thiếu vệ sinh và sạch sẽ tạo thành một lý do quan trọng cho nhiều bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn, tiêu lốt có thể mang lại lợi ích như một phương thuốc gia đình đơn giản. Người ta cho rằng gốc rễ và trái cây có thể có hoạt tính chống amoebic.
Giảm cân:
Thế giới ngày càng bị ám ảnh về việc giảm cân , và nhiều người đang ngu ngốc quay sang nhặt thực phẩm “lành mạnh” khỏi các kệ hàng siêu thị. Tiêu lốt, mặt khác, là một loại thảo mộc tuyệt vời mà được cho là thúc đẩy giảm cân và có ít tác dụng phụ hay không trên cơ thể. Nó được biết đến để giảm mỡ cơ thể và loại bỏ các độc tố ứ đọng mỡ ra khỏi cơ thể, từ đó ngăn ngừa bệnh béo phì.
Tham khảo
Cách dùng tiêu lốp trong ẩm thực các nước
Tiêu lốp được dùng khá thông dụng trong các món ăn Ấn Độ và Bắc Phi. Do sự khác biệt trong thành phần terpene nên tiêu đen không thay thế được tiêu lốp. Hương vị của tiêu lốp được xem là pha trộn giữa cay và ngọt. Tiêu lốp cay hơn tiêu đen nên người “ít ăn cay” nên thận trọng.
Tại Bắc Phi, nơi các vùng Hồi giáo (Bắc và Đông Phi Châu), tiêu lốp đã được các nhà buôn Ả Rập đem đến và trở thành một gia vị thông dụng dùng trong nhiều món ăn truyền thống địa phương, nhất là Maroc và Ethiopia.
Tại Maroc, tiêu lốp là một trong những gia vị tạo thành hỗn hợp “ras el hanout” dùng trong nhiều món ăn truyền thống.
Tại Ethiopia, tiêu lốp quan trọng hơn, dùng trong các món thịt hầm (wat), như bò hầm (siga wat), gà hầm (doro wat). Tiêu lốp được pha trộn với tiêu đen, đậu khấu, đinh hương và nghệ. Hỗn hợp trộn Berbere của Ethiopia gần tương tự với marsala của Ấn Độ, được dùng để ướp các món ăn từ thịt cừu.
Ở Việt Nam tiêu được đưa vào trồng trước năm 1943. Diện tích tiêu cả nước trên 27.000 ha, trong những năm gần đây giá cả tăng cường, kéo theo diện tích tiêu cả nước tăng lên đáng kể, trước năm 2003 Việt Nam là nước xuất khẩu tiêu đứng thứ 2 trên thế giới sau Ấn Độ, từ năm 2003 tới nay Việt Nam đứng đầu quả đât về xuất khẩu tiêu.